Một cuộc đời 9 giai đoạn
Nhân ngày giỗ thứ 25 của Nhạc sư Hải Linh 2013, chúng tôi duyệt lại bản tiểu sử này với một ít chi tiết chủ yếu dựa trên bài của Nhị Long, cũng có đôi chỗ mà Nhị Long còn sơ sót. Xin cảm ơn tác giả Nhị Long. Chúng tôi mong nhận thêm được nhiều thông tin về cuộc đời và các đóng góp của Nhạc sư Hải Linh. Vào dịp giỗ 30 năm(12/10/2018) chúng tôi bổ sung thêm một số hình ảnh và chi tiết.
Tu sĩ Lm. Xuân Thảo
1) 04-10-1920: Là ngày lễ thánh Phanxicô Atxidi, cũng là ngày sinh của Nhạc sư Hải Linh, và thánh Phanxicô được chọn làm bổn mạng cho nhạc sư. Nơi sinh là làng Ứng Luật, phủ Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, địa phận Phát Diệm. Tên thật là Trần Văn Đệ, sau cha già Trác nghĩa phụ đổi thành Trần Đức Trị theo chữ đầu của tên cha nghĩa phụ như thói quen thời ấy. Cuối cùng, năm 1936 cha già Liễn lại đổi tên Nhạc sư thành Trần Văn Linh (ngày sinh trên khai sinh là 30-10)
Thân phụ là ông cố Trần Văn Minh, thân mẫu là bà cố Nguyễn Thị Lan, thường gọi là ông bà chánh Minh. Gia đình có 7 người con, gồm 5 người con trai và 2 người con gái. Hải Linh là con trai thứ hai, còn anh cả đã qua đời lúc còn thanh niên. Một người em trai thứ 6, là cố LM Trần Công Hoan, tức nhạc sĩ Hùng An, cũng đã qua đời tại xứ Duyên Lăng, địa phận Xuân Lộc. Ngoài ra còn có ông Trần Du Dương ở Đồng Nai, bà Trần Thị Tính, tức bà Phạm Chính, ở đường Bà Hạt, xứ Bắc Hà, bà Trần Thị Mến ở Cái Sắn và ông Trần Văn Khiết cũng ở đường Bà Hạt, sau lập gia đình về ở Thủ Đức. Nay, 2013, các anh chị em đều đã qua đời, chỉ còn lại con cháu chắt.
Thân phụ làm nghề đắp tượng, còn thân mẫu làm “bà trùm” lo việc dạy “học trò” dâng hoa, dâng hạt, ngắm lễ… tại xứ Ứng Luật. Đôi tay khéo léo của thân phụ trong nghệ thuật đắp tượng và tiếng ca hồn nhạc đượm tính tôn giáo và dân tộc của thân mẫu trong nghệ thuật âm thanh đã góp phần làm nên một con người nghệ sĩ, rất nhạy cảm trước cái hay cái đẹp của nghệ thuật nói chung và của âm nhạc nói riêng.
2) 1930-1940: Lên 10 tuổi, Hải Linh được gia đình gửi đến cha già Trác để chuẩn bị đi tu. Năm 12 tuổi, vào trường Thử ở Trung Linh (Nam Định), tại đây Hải Linh được cố Lễ (tức cố Rangel) tập luyện ca hát và khơi mầm năng khiếu âm nhạc. Hải Linh đã sớm say mê âm nhạc, tự tìm tòi học hỏi thêm nên tiếng đàn giọng hát của Hải Linh hứa hẹn một tương lai khác thường hơn các bạn cùng tuổi. Năm 16 tuổi, Hải Linh lên Tiểu chủng viện Ninh Cường, ở đó Hải Linh đã phụ trách việc tập hát và đệm đàn nhà thờ. Nhân việc cha già Trác, thuộc về giáo phận Thái Bình mới tách ra từ Giáo phận Bùi Chu, nên Hải Linh nhận cha già Liễn thuộc Bùi Chu làm nghĩa phụ, và lại được đổi tên là Trần Văn Linh, theo chữ đầu của tên cha già Liễn. Năm 18 tuổi, đi giúp xứ An Bài, phụ trách tập hát và trông coi Nghĩa binh Thánh Thể.
3) 1940-1950: Năm 20 tuổi, Hải Linh vào học tại trường Thầy Giảng (Bùi Chu) và sau đó được giữ lại để dạy Pháp văn và âm nhạc tại trường. Đây là thời gian Hải Linh bắt đầu sáng tác một số bài hát đạo cũng như đời. Có lẽ bài hát đạo đầu tay của Hải Linh là bài :”Mẹ ơi, đoái thương xem nước Việt Nam” vào khoảng 1944. Hải Linh cùng với Vũ Minh Trân và một số bạn hữu khác như Thăng Ca (Ngô Duy Linh), Võ Thanh (Vũ Đình Trác), Hồ Khanh (Trần Thái Hiệp)… thành lập Nhạc đoàn Sao Mai, và đã xuất bản nhiều tập ca vịnh như : Ca vịnh Đức Mẹ (1946), Ca vịnh Đức Mẹ Fatima – Thánh cả Giuse (1949), Ca vịnh Thánh Tâm – Thánh Thể (1949)… Trong số các bài của thời kỳ sơ khởi này như “Lòng con đau đớn thiết tha…”, “Ngày nay con đến”, “Nguyện xin Thánh cả Giuse quyền cao sang…”, nổi bật nhất là bài “Hang Belem,”1 sáng tác 11-1945 cho mùa Giáng sinh năm ấy. Chính tác giả đã điều khiển ca đoàn nhà thờ chánh tòa Phát Diệm hát lần đầu tiên trong thánh lễ đêm Giáng sinh năm ấy. Cha Giám đốc Đại chủng viện là LM Phạm Ngọc Chi đã khen ngợi, và từ đó lưu tâm khuyến khích Hải Linh học hỏi và sáng tác thêm. Sau này, khi làm Giám mục địa phận, chính Ngài đã gửi Hải Linh đi du học về âm nhạc ở nước ngoài vào năm 1950.
4) 1950-1956: Trên con tàu Athos II, từ Saigon sang Marseilles, lúc đầu được gửi đi Roma, học khoảng 7 tháng tại Pontifical de Rome (Ý), ở Nhà Quản lý Phát Diệm (Foyer de Phát Diệm) do Cha Luca Trần Văn Huy đứng đầu, nhưng sau vì một số bất tiện cho việc học tập, nên đổi qua Pháp ở với cha Lương Kim Đinh tại căn nhà số 21 Rue Beaurepaire, Paris X. Từ 1-5-1951 học nhạc Bình Ca và Ca Trưởng tại Viện Giáo Nhạc ( Institut Grégorien de Paris) thuộc Institut Catholique de Paris (Học Viện Công Giáo Paris), đồng thời học sáng tác tại Trường Nhạc CÉSAR FRANCK do giáo sư Guy de Lioncourt làm giám đốc và trực tiếp hướng dẫn Hải Linh. Chính Giáo sư đã thổ lộ, theo lời kể của Cố LM Nhạc sĩ Hoàng Kim :” Trong suốt cuộc đời dạy học của tôi, tôi chỉ gặp được 2 người có tài, một người Nhật, là Kishio Hirao, làm trưởng ban nhạc Đài Phát thanh Tokyo, Nhật Bản, và người thứ hai là Phanxicô Hải Linh “.
(Trên đây là các văn bằng về Bình Ca (Diplôme de Chant Grégorien) và về Ca Trưởng (Diplôme de Chef de Choeur) tại Học Viện Công Giáo Paris (Institut Catholique de Paris), và văn bằng về Sáng Tác tại Trường Nhạc Cesar Franck).
Ngoài việc học chính thức tại 2 trường nói trên, Hải Linh còn tìm học thêm hoặc trao đổi thêm với một số giáo sư nổi tiếng khác về ngũ âm cũng như về điều khiển. Các tác phẩm trong thời kỳ du học tại Paris đã nói lên thao thức tìm một nhạc ngữ phù hợp với ngôn ngữ đa thanh của dân tộc : CHÚA KHẢI HOÀN, AVE MARIA 1, NGỢI KHEN, nhất là các bài RA KHƠI, NHẠC VIỆT, HÒ NON NƯỚC, CÓC QUÂN, DUYÊN KỲ NGỘ, CHUÔNG HÒA BÌNH, LÂM KHỐC … mang đầy âm hưởng dân tộc. Giáo sư Guy de Lioncourt đã nhiều lần tỏ vẻ thích thú khi nghe “Monsieur Francois” (Người Pháp gọi Hải Linh bằng tên thánh Phanxicô) giải thích tại sao chỗ này thì viết thoáng mỏng, chỗ kia phải đơn giản hóa hòa âm, chỗ khác phải viết theo tinh thần đối âm, chỗ khác nữa lại phải đi cùng chiều thay vì có thể đi ngược chiều… chung qui là cốt đề cao tính giai điệu của nhạc ngữ dân tộc và nhất là tôn trọng thanh điệu (dấu giọng) của ngôn ngữ Việt Nam. Một người du học không mất gốc, một học trò biết tự trọng và được người Thầy xứng danh là bậc Thầy tôn trọng và thán phục quí mến. Từ đó, Hải Linh càng ngày càng xác tín hơn về hướng đi của mình trong công việc đưa nhạc ngữ dân tộc từ bậc giai điệu (đơn điệu) lên bậc đa âm đa điệu. Và hai chủ đề chính cho các sáng tác của mình sẽ là : TÔN VINH THIÊN CHÚA và TÁN TỤNG QUÊ HƯƠNG.
5) 1956-1961: Trở về quê hương, ngoài việc dạy Hợp ca tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc, Hải Linh thành lập Ca đoàn HỒN NƯỚC nhằm thực hiện hoài bão của mình là TRÌNH TẤU SỐNG ĐỘNG các tác phẩm được soạn ra bằng một LỐI VIẾT THOÁNG MỎNG theo tinh thần Á Đông. Thành lập vào tháng 02/1957 thì tháng 6/1957 đã sơ diễn tại rạp Thống Nhất trong dịp lễ phát thưởng của trường Nguyễn Bá Tòng, nhưng đến 23/12/57 mới là buổi ra mắt công chúng đầu tiên tại rạp Olympic, và Ca đoàn Hồn Nước dưới sự điều khiển của Hải Linh, đã được hoan hô nhiệt liệt. Năm 1958, tại Thảo Cầm Viên Sài Gòn, Ca trưởng Hải Linh đã điều khiển Ca Đoàn Hồn Nước trình tấu bản Đà-Lạt Trăng Mờ với phần nhạc đệm của Dàn Nhạc Giao Hưởng New York (do nhạc trưởng Sherman hướng dẫn đến viếng thăm Việt Nam). Và tiếp tục trong những năm sau, các lần trình tấu của Ca trưởng Hải Linh đều có tiếng vang… Các bài sáng tác trong thời kỳ này gồm có : AVE MARIA 3 (Tấu lạy Bà), RA ĐỜI, NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH, ĐÀ LẠT TRĂNG MỜ, LÒNG MẸ, CUNG ĐÀN BẠC MỆNH 1,2,3, CHINH PHỤ NGÂM, CHUỖI CƯỜI… Riêng bài NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH đoạt giải nhất trong cuộc thi sáng tác cho Đại Hội Thánh Mẫu toàn quốc năm 1959. Ngày 05/02/58 lập gia đình với cô Phạm Thị Ly.
6) 1961-1970: Được học bổng sang nghiên cứu giáo dục âm nhạc tại Đại học Ohio (Hoa Kỳ). Tại đây, cũng được các Nhạc trưởng, nhạc công và khán thính giả Hoa Kỳ tán thưởng, nhất là trong lối trình tấu sống động và tinh vi. Năm 1969 sang Pháp dự định hoàn thành luận án tiến sĩ về “Cơ cấu giai điệu trong nhạc Việt”, nhưng vì một số lý do bên ngoài, nên phải bỏ dở luận án.
7) 1970-1975: Trở về nước lần này, ngoài việc dạy nhạc tại Đại học Đà Lạt, Nhạc sư Hải Linh tham gia Ủy ban Thánh Nhạc toàn quốc, tiếp tục củng cố ca đoàn Hồn Nước và thực hiện các cuốn băng : MỘT GIỜ HỢP CA 1 và 2. Đồng thời dạy nhiều lớp Ca trưởng tại Saigon và Đà Lạt.
Sáng tác thêm: TE DEUM, AVE MARIA 2, Bộ lễ NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH, HỒNG ÂN THIÊN CHÚA, THẰNG BỜM, TIẾNG THU, CON BƯỚM TRẮNG, ĐỒNG TIỀN VẠN LỊCH … Đại hội Thánh Nhạc Toàn Quốc năm 1972 tại trường Lasan Taberd(xem hình Hải Linh điều khiển tại Đại hội này) cũng là một cái mốc đáng ghi nhớ trong giai đoạn này.
8 ) 1975-1986: Tiếp tục dạy Ca trưởng, phần lớn tại tư gia. Cũng dạy đệm đàn, sáng tác cho một ít người. Cũng có những lần mở lớp tập hát, những lần hát Thánh ca đây đó trong khuôn khổ Nhà nước cho phép. Đặc biệt, bài KHÚC CA MẶT TRỜI (lời thơ Đoạn nói về Ông Anh Mặt Trời của Thánh Phan-xi-cô At-xi-di do Lm Vũ Đình Trác chuyển dịch sang thơ tiếng Việt) được hát lần đầu tiên tại Nhà thờ Đa-kao 10-1979, nhân kỷ niệm 50 năm Dòng Phanxicô được thành lập tại Việt Nam.
Cũng năm này (1982), nhân kỷ niệm 800 năm ngày sinh của Thánh Tổ phụ Phanxicô thì phần lớn TRƯỜNG CA CÁC TẠO VẬT (gồm Hợp ca Mở đầu, Đoạn I Ông Anh Mặt Trời, Đoạn II Chi Hằng Nga và Tinh Tú, Đoạn III Anh Gió, Đoạn IV Chị Nước và Chung Khúc, sáng tác chung với linh mục Xuân Thảo, cũng đã hoàn tất và được trình tấu lần đầu cũng tại nơi đây (Những Đoạn còn lại được sáng tác dần dà sau đó là Đoạn V Anh Lửa, Đoạn VIII Chị Chết, rồi năm 2003 thêm Đoạn VI Chị Đất Mẹ Hiền và Đoạn VII Anh Chị Em Loài Người).
(Hình Ns Ca trưởng Hải Linh điều khiển ca đoàn tổng hợp năm 1982)
(Hình màu chụp chung ca đoàn tổng hợp hát Khúc ca Mặt trời, Trường ca các tạo vật (trích đoạn), và Ngài là Thiên Chúa (Te Deum) tại thánh đường giáo xứ thánh Phanxicô Đakao
Các bài hát khác được sáng tác trong giai đoạn này gồm có: VINH DANH THIÊN CHÚA, PHƯỢNG TRÌ, KINH LẠY CHA, KHÚC NHẠC CẢM TẠ, CHÚC TỤNG THÁNH GIUSE, TÌNH NƯỚC NON, HOAN CA MÙA TRƯỜNG XUÂN, THƠ THƠ 1, 2, TÁN TỤNG HỒNG ÂN, TÌNH CHÚA YÊU TÔI, BẾN THIÊN ĐÀNG, YÊU CON ĐỜI ĐỜI, MÙA HỒNG ÂN, MẸ VÔ NHIỄM, … (Các bài từ Tán tụng Hồng Ân trở đi là soạn chung với một số tác giả khác).
Chưa kịp nghỉ ngơi, thì đã phải tập dượt cho Ca đoàn Hợp tuyển VN, để hát tại Đại hội mục vụ Thánh nhạc toàn quốc tổ chức tại New Orleans chiều 01/07/1986. Tại đây gần 800 người gồm Ca trưởng, nhạc sĩ Dương cầm, Quản cầm và các nhạc sĩ sáng tác công giáo Mỹ đã cảm phục tài nghệ của Nhạc sư. Cha Virgil Funk, chủ tịch Hiệp hội Ca nhạc sĩ mục vụ Hoa Kỳ đã lượng giá sự đóng góp của VN tại Đại hội như sau : ” Về lượng, các ông có vẻ yếu kém ( chỉ có 80 ca viên ), nhưng về phẩm thì phái đoàn VN đã ghi được thành tích đáng kể. Điều đáng kể thứ nhất là VN đã cho thính giả và các chuyên gia âm nhạc thánh ca Mỹ, thưởng thức những ca điệu VN rất độc đáo và hấp dẫn. Điều đáng kể thứ hai là Nhạc sĩ Hải Linh đã xuất hiện như một biến cố âm nhạc cao siêu và kỳ tài “. Hôm đó, nhạc sư điều khiển bài Tán tụng Hồng ân và Hồng ân Thiên Chúa.
Kế đó, Thầy mở các lớp Ca Trưởng tuần tự ở nhiều Tiểu bang khác nhau (New Orleans [LA], California, Portland [Oregon], Missouri, Texas…). Đồng thời, tập dượt cho nhiều Ca đoàn ở nhiều nơi khác nhau để hát trong nhiều dịp lễ. Chảng hạn, 8g00 tối ngày 19/12/1986, Nhạc sư đã tham gia Đêm Thánh Ca Giáng Sinh của cộng đồng Việt Nam tại Đại Thính viện Louis E. Plummer, thành phố Fullerton, California. Nhạc sư đã đích thân điều khiển bài SAY NOEL (lời: Xuân Ly Băng; nhạc: Kim Long; Phụ soạn: Hải Linh) và kết thúc bằng bài HANG BÊ-LEM.
Trong gần 20 tháng ở Mỹ, Nhạc sư đã tập dượt để điều khiển trên 12 buổi ca hát chính thức. Buổi điều khiển có ý nghĩa sau cùng đối với Nhạc sư có lẽ là đêm Giáng Sinh 24/12/1987 tại họ Đức Mẹ Lên Trời ở Avondale, bang Louisiana, khi bài Thánh ca Hang Bê-lem tròn 42 tuổi. Và trách nhiệm nặng nề lo tập hát cho Đại lễ Phong Thánh Tử Đạo VN tháng 6/1988 tại Roma là nỗi ưu tư lo lắng nhất cuối đời Nhạc sư. Thầy đã sáng tác thêm một số bài hát cho dịp này, như NHÂN CHỨNG ĐỨC TIN, BÀI CA KHẢI HOÀN… và đã lên chương trình tập dượt ở nhiều nơi.
Ngày 05/01/1988, lúc 5giờ chiều, Nhạc sư rời New Orleans đi Los Angeles để tập hát theo chương trình dự tính, thì đêm hôm ấy tới nơi trong một trạng thái mệt mỏi, khó ngủ. Một phần tuổi già, một phần lớn sức yếu vì bao công việc dồn dập và liên tục, cộng thêm với bao lo lắng ưu tư cho lý tưởng Hợp ca, nên sáng hôm sau, Nhạc sư bị đau nặng phải đưa đi bệnh viện. Nhạc sư đã từ trần vì nhồi máu cơ tim, lúc 6giờ30 chiều ngày 6-1-88 tại bệnh viện Fountain Valley.
Ngày 13/01/1988, Thánh lễ tiễn đưa lúc 17giờ15 tại Thánh đường Saint Callitus (Cộng đồng Tam biên). Sau đó linh cữu được đưa về New Orleans (trên chuyến bay 798 Delta Airlines).
Ngày 16/01/1988, lúc 9 giờ, linh cữu được chuyển từ Westside Funeral Home tới nguyện đường Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời để cử hành lễ an táng cuối cùng. Sau đó, linh cữu được chuyển đến Nghĩa trang Avondale, nơi an nghỉ cuối cùng của Nhạc sư, tọa lạc tại Restlawn Park Cemetery, Garden of Family Devotion, Block H, Square G, Plot 22, Lot 2.
Lm Nguyễn Xuân Thảo viếng mộ Nhạc Sư Hải Linh và Ngô Duy Linh |
Soeur Thiên Lan viếng mộ Nhạc Sư Hải Linh |
Nhạc sư Hải Linh ra đi thật đột ngột, bất ngờ, để lại bao kính thương, luyến tiếc. Còn bao nhiêu công việc đang dở dang chưa kịp hoàn tất, dù rằng những gì đã hoàn tất cũng đã là một đóng góp to lớn cho nền âm nhạc nói chung, và cho Việt Nam nói riêng. Đó là khoảng 60 bài để TÔN VINH THIÊN CHÚA, 60 bài để TÁN TỤNG QUÊ HƯƠNG, với trên dưới 40 bản đệm đàn, bản dạo đàn, cũng như trên 10 tập tài liệu soạn ra để huấn luyện Ca trưởng, dạy đệm đàn, dạy sáng tác…Thầy dạy học không chỉ từ kiến thức đã học được từ trường lớp, mà quan trọng hơn là từ kinh nghiệm sáng tác và trình tấu của mình. Vì thế, đóng góp quan trọng hơn cả, qua tất cả những gì Nhạc sư sáng tác và dạy lại, đó là một LỐI VIẾT THOÁNG MỎNG đượm tính dân tộc, khả năng diễn đạt phong phú và tinh vi những cảm xúc của con người Việt Nam trước Đấng Tạo hóa cũng như trước Quê Hương Đất Nước, trước nhân tình thế thái, bằng chính ngôn ngữ Việt Nam với nguyên vẹn các ấn tín thẩm mỹ dân tộc, đi đôi với LỐI TRÌNH TẤU SỐNG ĐỘNG nhờ cách điều khiển sắc bén, hiệu nghiệm và ngoạn mục, nhờ cách đệm đàn khéo léo và chọn lọc, nhờ cách hát theo tinh thần của Tiết tấu, với một lối phát âm “tròn vành rõ chữ” như cha ông ta thường nói. Đóng góp đó, Nhạc sư muốn cô đọng lại trong 2 cuốn sách mang cùng tên với hai chủ đề trên. Tuy chỉ mới dự thảo còn cần khai triển và biên soạn, nhưng với tất cả những gì để lại cũng như truyền đạt cho hậu bối, Nhạc sư Hải Linh đáng là bậc Thầy có công lớn trong nền âm nhạc Việt Nam.
DI-CẢO CỦA THẦY HẢI LINH
(trich từ một lá thư gửi về từ Mỹ, đầu tháng 7-1987)
Xin đánh lại cho rõ như sau: "Càng về già, càng ít để ý tới nếp sống và lối Trình tấu của Mỹ vì thiếu cái "Hồn", nên dành rất nhiều giờ chiêm ngưỡng vũ trụ bao la màu nhiệm là cả 1 Trường ca vô cùng vĩ đại do chính Chúa thượng trí đã sáng tác và đang điều khiển.-Càng ngắm càng thấy thêm nét tinh vi do tay Chúa phác họa tuyệt vời, qua gió thổi, mây bay, hoa nở, suối reo. Với tất cả khiêm cung khâm phục, tôi sẽ hy vọng bổ khuyết dần tay nhịp trong trình tấu và giáo khoa về Hợp Ca lý tưởng"
Trích từ Tưởng Niệm 1998, do Nhóm QUÊ HƯƠNG thực hiện
Xuân Thảo bổ sung ít chi tiết vào 5-1-2013 nhân giỗ 25 năm, và 12/10/2018 nhân giỗ 30 năm .