1).
Chúa nhật 2 Mùa chay: Mc 9, 2-10
A. Hạt giống...
Tường thuật Chúa Giêsu biến hình nằm trong phần thứ 3 của quyển Tin mừng Marcô, phần được các nhà nghiên cứu Thánh kinh đề tựa là “Mầu nhiệm Con Người”. Tường thuật này lại đi liền sau Lời Chúa Giêsu loan báo cuộc chịu nạn sắp tới (Mc 8,31-38). Như thế Chúa Giêsu biến hình nhằm cho các tông đồ biết về mầu nhiệm của Ngài: Ngài là Đấng vinh quang sáng láng; nhưng Ngài chỉ sẽ hiện diện sự vinh quang sáng láng đó sau khi chịu nạn chịu chết và sống lại.
B...nẩy mầm.
1. Phêrô muốn dựng lều cho Môse, Êlia và Chúa Giêsu, nghĩa là ông thích được hưởng cảnh vinh quang sáng láng. Nhưng cảnh đó chỉ diễn ra trong thoáng mắt, sau đó mọi sự trở lại như trước, Chúa Giêsu dẫn các ông xuống núi. Ai mà không thích thiên đàng, nhưng muốn lên thiên đàng thì trước đó phải vác thập giá theo Chúa.
2. Chúa Giêsu biến hình để trở lại hình ảnh vinh quang vốn có của Ngài trước đây. Chúng ta cũng thường biến hình, nhưng biến từ hình ảnh Thiên Chúa lúc mới được tạo dựng thành hình ảnh méo mó xấu xí vì tội lỗi. Mùa chay là thời gian chúng ta phải cố gắng biến trở lại hình ảnh ban đầu.
3. Ba đồng tiền vàng: Thời Trung cổ, có một vụ hành quyết tội phạm tại một thị trấn kia. Theo phép nước, chỉ có mỗi một lối thoát chết cho tử tội là nộp đủ 1000 đồng tiền vàng để chuộc mạng. Nhà vua tỏ ra hào hiệp tặng hết số vàng 700 đồng mang theo. Hoàng Hậu theo gương tặng 200 đồng. Các quan cũng dốc túi… Người ta đếm được tất cả 997 đồng, còn thiếu 3 đồng. Công lý không thể nhân nhượng, đành phải thi hành án lệnh. Toán hành quyết tròng dây thừng vào cổ tự tội, sửa soạn rút dây. Bỗng một tiếng kêu lớn “Khoan đã, lục soát người nó đi. Biết đau đấy”. Tên đao phủ lần dây lưng tội nhân, móc ra được 3 đồng tiền vàng hắn giấu kỹ từ trước…
Bài học rất dễ hiểu: Vua là Chúa Cứu Thế, hoàng hậu là Đức Maria, các quan là các thánh và các Kitô hữu chân chính… Tất cả đã quyên góp thành một kho báu cứu độ. Dẫu sao vẫn thiếu một ít. Mỗi người chúng ta phải đóng góp thành một thiện chí của mình chỉ là một chút, để chắc tâm thực hiện cuộc “vượt qua” từ đời sống tội lỗi lên đời sống thánh thiện.(Trích”Phúc”)
3. “ Từ trong đám đông có tiếng phán rằng: Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người “(Mc 9,7b)
Tối hôm đó, sau khi đã từ giã bà con thân thuộc và những ân nhân, bạn hữu đến thăm, chỉ còn lại hai mẹ con trong nhà, bà Magarita âu yếm nhìn con và nói “Gioan của mẹ, hôm nay con đã là Linh mục của Chúa và con được diễm phúc cử hành Thánh lễ. Từ nay con đừng lo gì cho mẹ hết, nhưng hãy lo một điều duy nhất là cứu rỗi các linh hồn”. Những lời của mẹ, Gioan Boscô đã ghi lòng tạc dạ và đã nên thánh. Lời của một người mẹ còn có sức mạnh như thế, huống hồ là Lời Chúa. Lời Chúa có sức mạnh ngàn lần. Vậy mà tôi lại xem thường, không để tâm thực hành trong cuộc sống.
Lạy Cha, xin giúp con làm những gì Chúa Giêsu đã làm, là hướng về Cha trong tâm tình cầu nguyện. Ước gì con cũng được nghe Cha nói cới con “Con là Con yêu dấu của Cha”(Epphata)
5.Mầm khác:
2). Quesson
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY
Mc 9,2-10
Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình...
Máccô không nói phải dựa vào sự kiện nào để tính "sáu ngày" trên. Một lần nữa, sự thiếu chính xác này cho ta thấy, không nên đọc Tin Mừng theo cách thông thường. Đối với người Do Thái, đối với mọi người đã làm quen với Kinh thánh, thì "sáu ngày" trên chỉ là một kiểu nói thần học. Đó là thời gian cần thiết để con người thanh tẩy trước khi đến gần Thiên Chúa: "Sáu ngày sau, từ giữa đám mây, trên núi Sinai, Thiên Chúa mới gọi Môsê..." (Xh 24,16). Chúng ta hãy lưu ý những từ: "sáu ngày"... "Mô sê"... "đám mây"... "núi"... Trình thuật của Máccô cũng được dệt bằng những hình ảnh Kinh thánh như thế. Nhưng còn mang ý nghĩa hơn: Có phải là ngẫu nhiên mà "Lễ lều tạm" (Yom Sukkôt) tại Itran lại xảy ra sáu ngày sau "Lễ xá tội" (Yom Kippour) không? Vì thế Lễ lều tạm là lễ người ta dựng những lều bằng cành lá, làm nơi trú ẩn mỏng manh trong thời gian lang thang nơi hoang địa, tượng trưng cho sự mỏng dòn của con người trên bước hành trình về Miền Đất Hứa. Sau này Phêrô cũng muốn dựng một nhà trú, một lều tạm.
Phêrô, Giacôbê và Gioan...
Đức Giêsu không mời gọi tất cả các môn đệ, nhưng chỉ chọn có ba ông! Chi tiết đó cũng không phải là một ngẫu nhiên, mà nếu đọc qua ta có thể không để ý đến. Chính "ba" môn đệ này đã chứng kiến việc đức Giêsu làm hồi sinh bé gái 12 tuổi (Mc 5,37), và chính ba ông này sẽ chứng kiến cơn hấp hối của Người tại Ghétsêmani (Mc 14,33).
HoÏ có phải là những con người được đặc ân không? Không phải vậy. HoÏ chỉ là ba con người sống những cảm nghiệm đặc biệt, để có khả năng nâng đỡ đức tin cho kẻ khác Tại sao ta lại hay so bì và ghen tị? Mỗi người chúng ta cũng đều nhận được một ơn riêng, độc nhất... ơn đó không chỉ dành riêng cho mình, nhưng để thông truyền cho kẻ khác...
Chỉ có ba ông, đi riêng với Người, lên một ngọn núi cao...
Đó là những điều kiện theo truyền thống Kinh thánh, để “gặp gỡ Thiên Chúa". Một đầu óc hiện đại có thể phản động lại: Thiên Chúa ở khắp nơi mà! Tại sao cứ phải bày vẽ ra như thế? Đúng vậy? Nhưng chúng ta là loài có thân xác nên không thể tránh bỏ một số những biểu tượng. Riêng tôi, tôi thấy hình ảnh đó thật đẹp và rất hùng hồn: Nào ta hãy tiến lên với "Thiên Chúa” (Xh 24,1 - 34,2 ; 1V 18,20 - 19, 8-11). Bạn hãy đứng trên núi! Hãy tạo lập cho bạn một núi trong tâm hồn, một đỉnh núi cô tịch và diện kề với Chúa? Hãy biết tận dụng những chân trời mở rộng! Bạn sẽ không khi nào nhìn thấy những chân trời đó, nếu không chấp nhận rời bỏ thung lũng, nương theo những con đường mòn mà leo cao, nếu không chịu khổ nhọc lâu dài, thở dốc trên những đỉnh cao trước không khí loãng nhạt và gay gắt nếu không chịu tách xa đám đông dân chúng.
Và Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông...
Khi con người cố diễn tả những tương quan giữa Thiên Chúa và thế gian, họ luôn bị dao động giữa hai do dự, hai quan niệm:
- Một quan niệm "bi quan”: Cần phải tiêu diệt thế gian để nhận thấy Thiên Chúa. Ta có thể gọi quan niệm đó là quan niệm của Thánh Âu tinh, Luther và phái Tin lành phục tùng cách mạnh mẽ.
- Một quan niệm "lạc quan": Chính "thế gian này" là Nước Thiên Chúa. Người ta đề cao giá trị của con người và thế giới và làm giảm nhẹ ảnh hưởng của Thiên Chúa. Đây có thể là cơn cám dỗ của người Công giáo, thường biến Giáo Hội trở nên một cái gì tuyệt đối, là Nước Trời đã đến.
- Nhưng cũng có một "quan niệm thứ ba biến dạng": Vâng, xác thịt là tốt và thân xác là do Thiên Chúa muốn tạo ra... Vâng, thế gian là tạo vật của Chúa... Nhưng đó chỉ là "hình ảnh", là "họa ảnh” tương tự của Thiên Chúa. Để thực sự tốt hẳn, thế gian không cần bị "tiêu diệt”, nhưng cần được “biến dạng". Trên núi, đức Giêsu không để một ánh sáng từ ngoài rọi chiếu vào, những chính Người, trong thân xác Người, đã là ánh sáng. Và tất cả những gì là xác thịt trong ta, cũng phải trở nên ánh sáng, trong suốt, tinh thần. Bên phương Đông thuộc Chính thống giáo, Lễ Biến Hình là đại "Lễ", Lễ tôn kính Hình tượng... Con người được Thiên Chúa xuyên qua. Trong thời kỳ tập sự, không chỉ nhắm học một "kỹ thuật", người họa sĩ hình tượng trước hết phải vẽ một ảnh Đức Giêsu biến hình... để chứng tỏ anh ta có khả năng vẽ được một khuôn mặt người – hình ảnh - của Thiên Chúa hay không. Đó là cả một quan niệm về cuộc đời, về xã hội loài người, về Giáo Hội, về phụng vụ mà mục đích là giúp ta rập theo đúng khuôn Đức Giêsu.
Nếu những cách nhìn này có vẻ làm chúng ta choáng váng, thì có lẽ chúng ta phải khám phá ra ý nghĩa đích thực của Phép rửa, bí tích đã "dìm" ta trong Đức Kitô, đã làm cho ta được "tham dự vào bản tính của Thiên Chúa" (2.Pr 1,4). Đúng ra, toàn diện đời sống Kitô hữu chúng ta chỉ là một sự thông phần, một biến hình trong Đức Kitô. "Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương. Như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là "Thần khí" (2 Cr 3,18).
Chắc chắn, ở dưới trần gian này, mầu nhiệm phi thường đó nghĩa là sự biến đổi thực sự con người trong Thiên Chúa vẫn không thể thấy được. Tuy nhiên, sự biến hình của ta đã đạt được, dù còn bí ẩn, nhưng một ngày nào đó sẽ bùng tỏa ra: "Sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang" (Cl 3,34).
Y phục Người trở nên rực rỡ trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.
Đừng coi thánh Phêrô và thánh Máccô, thư ký của ông, lại ngây ngô hơn ta. Đó là những con người rất thực tế, những kẻ bình dân, không phải là các nhà trí thức. Các ông mới biết mở miệng... nhưng chưa biết phải nói thế nào về cảm nghiệm phi thường đã "xảy đến" cho mình. Như thế cả chúng ta nữa, ta cũng không nên dừng lại ở mức độ sơ đẳng là "giặt sạch nhất", "trắng nhất". Vấn đề không nằm ở yếu tố đó.
Một lần nữa, chúng ta đang nằm trong lĩnh vực ngôn ngữ Kinh thánh biểu tượng : Màu trắng là màu của thế giới trên trời... và không gì ở trần thế so sánh được. Đó là màu của thiên sứ hiện đến lúc Phục sinh (Mt 28,3), lúc Chúa lên trời (Cv l,10). Đó là máu của những kẻ chiến thắng (Kh 3,4.20,11.2,17.6,11.7,13-15). Áo trắng khi chịu phép rửa, lúc tuyên xưng đức tin, áo trắng của cô dâu, áo trắng của linh mục lúc dâng lễ... đều lấy lại hình ảnh biểu tượng này. “Anh em được mặc lấy Đức Kitô" (Cr 3,27). "Cái thân sẽ chết này sẽ mặc lấy sự bất tử" (lCr 15,53). “Anh em hãy cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới" (Cl 3,10).
Ông Êlia cùng Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu.
Môsê và Êlia tượng trưng cho sự mong đợi của Itraen được ghi trong "lề luật" và các "ngôn sứ". Chúng ta cũng cần ghi nhận, họ không chỉ là những nhân vật đứng ra "làm vì". Đó là khuôn mặt tiêu biểu, đã chết trước đó nhiều thế kỷ mà lại hiện diện đồng thời với đức Giêsu và đang nói chuyện với Người. HoÏ đang liên hệ sống động với Chúa. Đó là thứ Ánh Sáng chiếu trên cuộc sống bên kia thế giới. Ánh Sáng chiếu tỏa trên những người quá cố của chúng ta. Cái chết thay vì là kết điểm. Có phải là một "cửa ngõ" dẫn chúng ta vào thế giới của Thiên Chúa không?
Trong Cựu ước Môsê và Êlia là hai nhân vật vĩ đại đã được Thiên Chúa mạc khải cho "trên núi". Và truyền thống Do Thái vẫn mong đợi hai vị trở lại vào lúc kết thúc thời gian chuẩn bị cho Đấng Mêsia đến (Mt 3,22-24). Vả lại theo thánh Mácô, thì đó cũng là câu hỏi mà các môn đệ đã đặt ra cho Chúa Giêsu, ngay sau khi diễn ra quang cảnh trên (Mc 9,11-13).
Cùng với Đức Giêsu; thời cánh chung đã khởi sự
Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều”. Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông sợ quá.
Một lần nữa, Phêrô lại đóng vai phát ngôn viên. Chính ông, trước đó vài hôm, lúc ở Xêdar đã nhân danh cả nhóm “tuyên xưng đức tin" (Mc 8,27-33). Chính ông đã đóng vai xatan cám dỗ Đức Giêsu khước từ thập giá (Mc 8,33). Hôm nay, ông vẫn chưa hiểu hơn gì. Đó là một "người chứng” không vẽ vời điều gì thêm. Các biến cố xảy đến cho ông, đều mang tính cưỡng ép, trái với ý ông... Sau này, ông sẽ viết: "Đó không phải là những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo... chính chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người... khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người (2 Pr 1,16-18). Chúng ta cũng nên đọc lại đời ông: Phêrô không phải là con người chiêm niệm huyền bí... đó chỉ là anh chàng làm nghề biển! Chúng ta có thể tin tưởng vào khiếu quan sát của ông. Ngoài ra, ông cũng nhận ra rằng, đó là điều không thể hiểu được. Nhưng điều đó buộc ông phải chấp nhận. Ông không biết phải nói gì.
Bỗng có một đám mây bay đến bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là con ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”.
Theo kiểu nói biểu tượng đám mây là "Sự hiện diện của Thiên Chúa" (Xh 16,10 - 19,9 - 24,15; Ds 14,10). Tiếng nói trên đây cũng chính là tiếng nói ngày Đức Giêsu chịu phép rửa (Mc 1,11). Nhưng lúc đó, tiếng nói đó chỉ dành cho đức Giêsu. Còn hôm nay, tiếng phán này gửi cho các môn đệ.
Vậy Đức Giêsu là ai? Để đáp lại cầu hỏi cơ bản này, ta không thể vận dụng “những suy luận" cá nhân, cũng không nhờ vào "những nghiên cứu Kinh thánh", nhưng qua cách cầu nguyện "riêng một mình trên núi", nếu ta biết lắng nghe? Căn tính đích thực của Đức Giêsu mà ta biết được chỉ nhờ Chúa Cha mạc khải... Đó là điều vượt khỏi khả năng nắm bắt của con người.
Ở trên núi xuống, Đức Giêsu cấm các ông không được kể lại cho ai nghe những điều đã thấy cho đến khi con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại" nghĩa là gì?
Cần phải có Thập giá và Phục sinh, để các môn đệ khám phá ra căn tính đích thực của Chúa Giêsu.
3). Lm Hàm
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY
Maccô 9, 1-9 (Gr 2-10)
Ở đây chúng ta đang đối diện với một biến cố trong đời sống của Chúa Giêsu vốn được phủ bằng một tấm màn bí mật. Chúng ta chỉ cố tìm hiểu xem đã có chuyện gì xảy ra. Maccô bảo rằng việc này xảy ra sáu ngày sau biến cố tuyên xưng thần tính gần Xêdarê Philipphê, còn Luca thì nói tám ngày sau. Tuy nhiên ở đây không hề có sự bất nhất. Cả hai vị đều muốn nói như chúng ta thường nói "dộ chừng một tuần lễ sau". Cả hai giáo hội Đông phương và Tây phương đều kỷ niệm ngày Chúa Giêsu biến hình vào mùng sáu tháng tám dương lịch. Vấn đề quan trọng không phải ngày đó đúng hay không, nhưng đó là thời điểm mà chúng ta nên tìm cách ghi nhớ. Truyền khẩu nói sự biến hình xảy ra trên núi Tabo. Giáo hội Đông phương gọi lễ Chúa biến hình là Taborion. Có lẽ việc chọn núi Tabo được căn cứ vào câu, đề cập núi Tabo trong Thánh vịnh 89,13 (Núi Tabo cùng với đỉnh Khemon). Nhưng đó là một sự chọn lựa đáng tiếc. Núi Tabo nằm về phía nam xứ Galilê, còn Xêdarê Philipphê thì nằm ở tận phía bắc. Núi Tabo không cao hơn 300 mét và vào thời Chúa Giêsu có một đồn binh trên đó. Điều có lý hơn là sự việc đã xảy ra trên sườn núi Hetmon, một ngọn núi phủ tuyết quanh năm, cao gần ba ngàn mét gần Xêdarê Philipphê hơn và khung cảnh cũng yên tĩnh hơn nhiều.
Chúng ta không thể xác quyết đã có chuyện gì xảy ra. Chúng ta chỉ biết cúi đầu cung kính khi cố gắng tìm hiểu. Maccô bảo áo xống của Chúa Giêsu trở nên sáng rực. Từ ngữ ông dùng để chỉ vẻ sáng chói của đồng hoặc vàng được nung chảy, hoặc của thép được đánh bóng hay ánh sáng chói chang vàng rực của mặt trời. Lúc biến cố ấy kết thúc, có một áng mây che phủ họ. Trong tư tưởng của người dothái, sự hiện diện của Thiên Chúa luôn luôn được kết hợp với đám mây. Thiên Chúa giáng xuống trên nền tạm với đám mây. Trong ngày khánh thành Đền Thờ sau khi được Salômôn xây cất, một đám mây đã bao phủ Đền Thờ. Việc đám mây giáng xuống là một cách nói rằng Đấng Messia đã đến, và bất kỳ người Dothái nào cũng hiểu như vậy.
Sự biến hình có hai ý nghiã:
1. Đó là một điều thật qúy báu cho Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu cần quyết định một số việc, Ngài đã quyết định lên Giêrusalem, và quyết định ấy có nghiã là đối diện và chấp nhập thập gía. Ngài cần biết cách tuyệt đối rằng mình đã quyết định đúng trước khi dấn bước. Trên đỉnh núi Ngài đã được chấp thuận đôi về quyết định của Ngài.
a. Êlia và Môsê đã đến gặp Ngài. Môsê là nhân vật tối cao đã ban bố luật pháp cho Israel. Cả dân tộc đã chịu ơn ông về luật pháp của Thiên Chúa. Êlia là vị tiên tri đầu tiên và vĩ đại nhất trong các tiên tri. Mọi người luôn nhìn lại ông như một tiên tri mang chính Lời Thiên Chúa đến cho loài người. Khi hai nhân vật lỗi lạc đó hội kiến với Chúa Giêsu, có nghĩa là nhà ban bố luật pháp vĩ đại nhất và nhà tiên tri lỗi lạc nhất đã nói với Chúa Giêsu rằng "xin cứ tiến lên". Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Chúa Giêsu sự hoàn thành của tất cả những gì họ từng mơ ứơc trong qúa khứ. Nó có nghĩa là họ thấy nơn Ngaì tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tràn đầy. Dường như chính lúc đó Chúa Giêsu được bảo đảm rằng Ngài đang đi đúng đường, và cả lịch sử đều dẫn đến thập gía.
b. Thiên Chúa phán với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không bao giờ hành động theo ý riêng. Ngài luôn luôn đến với Thiên Chúa và thưa rằng "Cha muốn con phải làm gì đây?" Ngài đặt mọi kế hoạch và dự kiến trước mặt Thiên Chúa, và Chúa Cha phán với Ngài "Con đang làm đúng điều con yêu dấu ta đáng phải làm. Hãy tiếp tục đ !" Trên núi biến hình Chúa Giêsu bảo đảm Ngài đã không chọn sai đường. Ngài đã thấy thập gía không những là việc không tránh được mà còn là điều vô cùng chính đáng.
2. Đó là một điều quý báu vô cùng cho các môn đệ của Chúa.
a. Họ đang bị tan nát khi nghe Chúa Giêsu khẳng định rằng Ngài sắp phải lên Giêrusalem để chịu chết. Điều này dườngnhư tiêu hủy, phủ nhận tất cả những gì họ đã được hiểu về Đấng Messia. Họ đang bối rồi ngẩn ngơ, kinh ngạc chẳng hiểu việc như thế nào. Những việc xảy ra chẳng những khiến họ rối trí mà còn khiến họ đau lòng. Những gì đã thấy trên núi biến hình cho họ cơ hội để bám chặt lấy ngay khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe chính tiếng phán của Thiên Chúa xác nhận Chúa Giêsu là Con Ngài.
b. Nó khiến họ trở thành các chứng nhân cho sự vinh hiển của Chúa Cứu Thế theo một ý nghĩa đặc biệt. Theo định nghĩa chứng nhân là người thấy sau đó bày tỏ ra. Lần ấy, trên núi, khi có cơ hội, họ đã sẵn sàng câu chuyện đang dấu kín trong lòng, sẽ kể lại cho mọi người nghe.
4). MHLC
02- Chay-Năm B
(St.22,l-2.9.10-13.15-18; Rm.8,3-34; Mc. 9,2-10)
Theo Chúa chịu chết để được sống
l. Tại sao Chúa Giêsu biến hình sáng láng
Các tông đồ theo Chúa Giêsu chỉ mong Người sẽ là vị cứu tinh cho dân tộc các ông: giải phóng các ông khỏi nộ lệ đế quốc La-mã, trở thành kiện tướng giúp các ông bá chủ các nước, cho các ông vinh thân quyền cao chức cả. Thế nên khi nghe Chúa Giêsu báo trước: Người phải đi giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người... (Mt 16,21-22).
Các tông đồ không muốn Chúa bị giết chết vì lý do nói trên. Các ông chưa biết Người đến để cứu rỗi loài ngươi, giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết. Người phải chết để cho phân loại được sống. Người phải chịu thương khó để con ngươi được hạnh phúc.
Để cho các tông đồ hiểu mầu nhiệm thập giá và cuộc tử nạn, Chúa Giêsu đã biến hình sáng láng trên núi Tabor. Người có chết đau khổ mới sống lại vinh quang. Người phải chịu tửù nạn khổ giá để cho loài người được sống và sống dồi dào.
Đồng thời qua cuộc biến hình sáng láng, Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta là tín hữu Người: muốn biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày theo Người.
2. Hạt giống gieo vào lòng đất
Bà và cháu gái đang phân loại hạt giống, chuẩn bị cho vụ mùa tới. Cô bé nhận xét khi kiểm tra những hạt trong tay:
- Những mong đợi nhỏ bé và mỏng manh phải không bà? Có phải mỗi hạt là một niềm hy vọng không?
- Phải, mỗi hạt là một niềm hy vọng. Nhưng vì là hy vọng, cần có những điều kiện để đi tới thành đạt.
Chúa cho chúng ta niềm hy vọng được an bình mỗi khi đau khổ, được sức mạnh khi gặp thử thách; được ánh sáng cho những ngày đen tối. Nhưng chúng ta phải có niềm tin và can đảm tiến về phía trước.
Hạt giống nhỏ bé phải chịu chôn vùi trong đất và phơi mình dưới mưa nắng, thì khả năng tốt dẹp của nó mới thành hiện thực.
(Trích Minh hoạ Lời Chúa).
Hạt giống gieo xuống đất phải thúi đi mới sinh nhiều bông hạt.
Apraham tin Chúa đem sát tế con một, được Chúa cứu sống con ông và được ban phúc tràn đầy, cho dòng dõi đông đúc nhứ sao trên trời, như cát bãi biển.
Chúa Giêsu chịu sát tế trên thập giá bao nhiêu người được cứu độ
Mùa Chay là mùa chết cho tội lỗi, để được sống lại nên người mới, người hoàn hảo hơn, xứng đáng làm người làm con Chúa hơn.
3. Không bao giờ tuyệt vọng
Một người tên Bịasdasir đã dốc lòng chừa tội nhiều lần quá mà cứ sa ngã phạm tội mãi, nên lần nầy anh nhất quyết: mỗi lần phạm tội sẽ bứt bỏ l0 sợïi tóc trên đầu.
Sau một thời gian, anh thấy đầu mình gần trọc, thế mà tội thì chưa bỏ được, nên anh dốc quyết thêm: Nếu ngày nào đầu trọc hẳn sê tự tử...
Nhưng ít ngày sau đó, anh lại thấy đầu mình trọc hẳn, nên cầm lấy khẩu súng lục, định bắn vào đầu. Nhưng một thiên thần hiện đến, trao cho anh gói quà và nói:
- Khoan. Đừng tuyệt vọng. Không nên kết liễu đời mình như thế
Tình thưa:
- Nhưng tôi đã thề hứa với Chúa: tôi sẽ kết liễu đời tôi, khi tôi không còn tóc trên đầu.
- Thiên Chúa không cho phép anh làm như vậy. Người bảo anh phải hy vọng, phải trông cậy, tin tưởng Người. Người sẽ cứu giúp anh. Đây, Người gởi cho anh gói quà. Hãy mở ra xem.
Bịasdasit vội vàng mỡ gói quà. Đó làø một đầu tóc giả. Và hiểu ý muốn của Chúa. (Theo Sám hối và canh tân)
Chúng ta có lúc ngã lòng tuyệt vọng, vì cứ sa đi ngã lại trong tội lỗi, vì cái nghèo đói cứ đeo đẳng mãi, vì buồn khổ trong gia đình cứ kéo dài, và còn rất nhiều cái vì khác nữa. Nhưng chúng ta cần trông cậy tin tưởng Chúa. Chúa không bao giờ bỏ chúng ta. Đó là con đường Chúa vạch sẵn cho chúng ta đi theo Người vào Quê Trời, và chính Người đã đi trước để dẫn chúng ta theo sau, vì có chết đau khổ mới sống lại vinh quang. Có vác thập giá mới được làm công dân Nước Trời.
4. Vác thập giá theo Chúa
Trước khi bắt đầu cuộc hành hương về Núi thánh, thầy tu viện trưởng dẫn các tu sĩ đến nơi có trưng bày thập giá lớn nhỏ khác nhau và nói:
- Chúng ta mỗi người sẽ chọn cho mình một cây thánh giá trong suốt cuộc hành hương.
Các tu sĩ tranh nhau dành cho mình cây thập giá nhỏ nhất, nhẹ nhất.
Lúc các tu sĩ đã chọn thập giá cho họ rồi, còn lại một cây thập giá to nhất cho thầy tu viện trưởng.
Thầy bước tới vác lấy cây thập giá đó. Chỉ với một tay, thầy đã nhắc cây thập giá lên vai, và vác đi có vẻ nhẹ nhàng khoan khoái...
Chúng ta thường nói sẵn sàng vác thánh giá theo Chúa, nhưng lúc nào cũng muốn một cây thánh giá nhỏ nhất nhẹ nhất theo ý riêng chúng ta, hơn là vác thập giá Chúa gởi đến cho.
Chúa đã nói với chúng ta: Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình vác thánh giá hằng ngày mà theo Ta.
Có sẵn sàng vác thánh giá Chúa gởi mới được theo Chúa là Đường, là sự Thật, để vào cõi sống muôn đời. Có bí cực mới có thới lai. Đó cũng là một cuộc biến dối của Mùa Chay.
Lạy Chúa, xin thương giúp con hiểu rõ mầu nhiệm thập giá trong đời sống con, và cho con dủ can đảm nhận lãnh thánh giá Chúa gởi đến cho con vác theo Chúa, vì Chúa là đường an toàn nhất tiến về Quê Trời... (Theo Lẽ sống, tập 2).
5. Từ Tabor đến Golgotha
Qua nhiều năm coi xứ, một linh mục kể câu chuyện sau đây:
Có đôi vợ chồng trẻ xinh đẹp, đúng là trai tài gái sắc. Họ sống trong tình yêu nồng cháy hạnh phúc.
Một hôm cô vợ ăn nửa trái táo, phân lửa còn lại đưa cho chồng. Chàng vui vẻ đón nhận và nói.
- Ôi nửa trái táo ân tình...
Hai mươi năm sau, cũng một trái táo, cô vợ ăn phân nửa, còn phân nửa kia trao cho chàng. Chàng nhăn mặt bảo:
- Sao lại cho tôi nữa trái ăn thừa?
Cũng nửa trái táo hai mươi năm trước thì gọi là nửa trái táo ân tình, hai mươi năm sau thì bảo là nửa trái táo ăn thừa. Thật đúng là tình đời...
Chúa Giêsu biến hình sáng láng trên núi Tabor trước mặt ba tông đồ để cho các ông hiểu mầu nhiệm tử nạn của người trên đồi golgôtha: Người phải trải qua khổ giá mới tiến đến vinh quang. Người phải chết cho nhân loại được sống.
Nhưng cuộc biến hình của Chúa đã phản tác dụng, vì chính lúc đó Phêrô thưa với Chúa: thưa Thầy chúng con ờ đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều: một cho Thầy, một cho Môisen và một cho Êlia (Mc 9,5), các ông muốn ớ lại luôn trên núi để hưởng hào quang rực rỡ, bỏ lại công cuộc cứu rỗi loài người. Các ông chưa muốn biết Chúa Giêsu lên lúi Tabor để chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Các ông muốn theo Chúa để được hưởng thụ chứ không phải để leo lên khổ giá với thầy.
Phải chăng đó cũng là thái độ của chúng ta? Nhưng mùa chay nhắc chúng ta: Vác Thánh giá lên đồi Canvê với Chúa để được sống lại vinh quang với Người, chết cho con người tội lỗi của chúng ta để dược sống lại nên người mới. (Theo như Thầy đã yêu).
5) Ban MV Phụng tự
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY
(St 22, 1-2. 9a. 10-13. 15-18; Rm 8, 31b-34; Mc 9, 1-9)
TRAO BAN CON YÊU DẤU
Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng:
“Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7)
I. CÁC BÀI ĐỌC:
1. Bài đọc 1:
Khi được Thiên Chúa yêu cầu dâng đứa con duy nhất là Isaác, ông Ápraham đã không mảy may do dự nhưng đã hoàn toàn vâng theo cách mau mắn. Thái độ mau mắn dâng con của Ápraham đã mở ra cho ông một tương lai dư tràn phúc lành từ Thiên Chúa.
Đối với ông Ápraham, đứa con yêu dấu Isaác chính là niềm hy vọng cho tương lai dòng dõi của ông. Khi vâng lệnh Thiên Chúa hiến dâng đứa con duy nhất, đứa con thừa tự, ông Ápraham hoàn toàn đặt tương lai của dòng tộc vào trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa; ông để Thiên Chúa thực hiện chương trình của Ngài trên cuộc đời ông. Hành động “dâng con làm của lễ toàn thiêu” thật là một sự hiến dâng trọn vẹn và vâng phục hoàn toàn theo thánh ý Chúa.
Đối với Thiên Chúa, hành động dâng hiến hoàn toàn và vâng phục trọn vẹn, là bằng chứng của một lòng tin son sắt của ông Ápraham, một lòng tin xứng đáng nhận phúc lành của Ngài. Hơn nữa, phúc lành của Thiên Chúa vượt xa điều mà ông Ápraham mong ước, một dòng dõi “nhiều như sao bầu trời, như cát ngoài bãi biển”, một dòng dõi chiến thắng kẻ thù và qua dòng dõi đó mà mọi dân tộc trên mặt đất được chúc phúc.
Vâng phục thánh ý Thiên Chúa, sẵn sàng dâng hiến hoàn toàn và để Ngài hành động trong cuộc đời mình là khởi đầu của muôn phúc lành Thiên Chúa ban cho những ai tín thác nơi Ngài.
2. Bài đọc 2:
Thánh Phaolô ca tụng tình yêu cao cả mà Thiên Chúa dành cho con người khi hiến dâng chính Con Một vì con người.
Thứ nhất, Thiên Chúa yêu con người đến nỗi trao ban chính Con Một (x. Ga 3,16), Đấng đã chết, sống lại và hằng ở bên hữu Thiên Chúa để chuyển cầu cho con người (Rm 8,34). Đến như Con Một của Ngài, Thiên Chúa cũng trao ban; Ngài chẳng còn tiếc gì, chẳng còn giữ lại gì, nhưng trao ban cho con người tất cả.
Thứ hai, khi ban Con Một cho con người, Thiên Chúa muốn bênh đỡ và bảo vệ con người trước mọi lời buộc tội và kết án. Qua cái chết của Đức Giêsu, Con yêu dấu của Ngài, Thiên Chúa tha thứ mọi lỗi lầm cho con người. Nếu Thiên Chúa không buộc tội và kết án, thì đó là sự bảo đảm rằng con người được yêu thương và tha thứ.
Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người thôi thúc Ngài trao ban tất cả, ngay cả Con Một yêu dấu; tình yêu tha thứ thay cho buộc tội và kết án.
3. Bài Tin Mừng:
Tin Mừng Máccô thuật lại cuộc biến hình của Chúa Giêsu, qua đó hé lộ con đường dâng hiến trọn vẹn của Người, con đường đi từ thập giá để đến vinh quang.
Trước hết, diện mạo và y phục của Chúa Giêsu biến đổi nhằm mặc khải về vinh quang thần tính của Người. Đồng thời, tiếng từ trời “đây là Con Ta yêu dấu” là lời mặc khải công khai về nguồn gốc của Chúa Giêsu: Người là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Đức Giêsu không chỉ là một con người giữa lòng nhân loại; Người còn là Con Thiên Chúa được trao ban cho con người.
Sau nữa, con đường đến vinh quang của Con Thiên Chúa là con đường trải qua thập giá. Quả vậy, hai ông Môsê và Êlia đàm đạo “về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9,31), còn Chúa Giêsu thì căn dặn các môn đệ đừng “kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại” (Mc 9,9). Chỉ khi Chúa Giêsu đón nhận “cuộc xuất hành” trên thập giá và từ cõi chết sống lại, Người mới mặc lấy diện mạo vinh quang đích thực của Con Một Thiên Chúa. Đó chính là mầu nhiệm của sự trao hiến cách trọn vẹn mà Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Vinh quang chói lọi của Con Thiên Chúa mà các môn đệ chứng kiến phần nào trên núi chỉ được tỏ lộ cách trọn vẹn qua thập giá. Đó cũng là con đường mà người môn đệ phải “vâng nghe lời Người” mà bước theo.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG:
1/ Khi dâng đứa con duy nhất cho Thiên Chúa theo lệnh của Ngài, ông Ápraham hoàn toàn đặt niềm tin tưởng và phó thác cả tương lai dòng tộc trong tay Thiên Chúa. Đáp lại, Thiên Chúa ban cho ông một dòng dõi đông đúc như lời Ngài đã hứa. Nếu con người tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa và vâng theo thánh ý Ngài, Ngài sẽ thực hiện những công trình kỳ diệu nơi con người.
2/ Khi trao ban cho con người đứa Con Một, Đấng chết, sống lại và hằng ở bên hữu Thiên Chúa để chuyển cầu cho con người, Thiên Chúa đã yêu thương mà cho đi tất cả. Được Thiên Chúa yêu thương và bảo vệ, con người không còn lo sợ điều gì. Những ai tín thác vào tình thương của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu, sẽ tìm được sự an bình đích thực.
3/ Chúa Giêsu mặc khải cho các môn đệ về thần tính của Người là Con yêu dấu của Chúa Cha, nhưng các ông không thể ở mãi trên núi mà chiêm ngắm, vì con đường vinh quang của Con Thiên Chúa phải trải qua đau khổ và cái chết. Để được chia sẻ vinh quang của Con Thiên Chúa, các môn đệ cũng cần “vâng nghe lời Người” mà sống theo giáo huấn của Người và bước đi trên con đường thập giá. Đó chính là con đường hiến dâng đích thật.
III. LỜI NGUYỆN CHUNG:
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Nhờ mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, chúng ta được biến đổi trở nên con người mới xứng đáng với vinh quang Nước Trời. Chúng ta cùng cảm tạ tình thương cứu độ của Thiên Chúa và tha thiết dâng lời cầu xin:
1. Đức Giêsu đã tỏ vinh quang cho các môn đệ đang khi Người cầu nguyện. Chúng ta cùng cầu xin cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh luôn phản ánh khuôn mặt đích thực của Đức Kitô cho con người thời đại hôm nay, qua đời sống gương mẫu thánh thiện.
2. “Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Chúng ta cùng cầu xin cho các nhà lãnh đạo trên thế giới luôn biết lắng nghe tiếng nói của lương tâm và sự thật trong khi thực thi quyền bính, nhằm đem lại hoà bình và công lý cho mọi người.
3. Đức Giêsu đã trải qua đau khổ để bước vào vinh quang. Chúng ta cùng cầu xin cho những ai đang phải gánh chịu đau khổ về thể xác hay tinh thần, biết nhìn lên thập giá Chúa để kết hiệp với Người và can đảm biến những đau khổ ấy thành niềm vui cứu độ.
4. Thánh Phaolô khẳng định rằng Thiên Chúa sẽ “ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người”. Xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta, biết nỗ lực canh tân bản thân mỗi ngày để nên giống Chúa Giêsu hơn, hầu xứng đáng được chia sẻ vinh quang của Người.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng hằng hữu, Cha đã tỏ cho chúng con thấy quyền năng và tình thương của Cha qua Đức Giêsu Kitô. Xin cho chúng con luôn trung thành bước theo Người, thực thi lời Người truyền dạy, để cùng được dự phần vinh quang với Người. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
6) Lm. Giuse Đinh Lập Liễm, Giáo xứ Kim Phát, Gp. Đà Lạt
CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY B
THỬ THÁCH TRONG CUỘC SỐNG
+++
A. DẪN NHẬP.
Bài Tin Mừng Thánh lễ hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor trước mặt ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Việc biến hình này có ý nghĩa gì ? Chắc chắn nhờ việc chứng kiến vẻ vinh quang tương lai của Chúa, Ngài muốn chuẩn bị cho các ông đối diện với biến cố khổ nạn của Ngài sẽ xẩy ra sau này.
Đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải theo gương các môn đệ mà trèo lên núi, bất chấp khó khăn, can đảm dấn thân bước theo Đức Giêsu trong cuộc tử nạn của Ngài. Cuộc đời của chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn, nhiều gian nan thử thách và có hàng ngàn lý do khiến chúng ta bỡ ngỡ, bối rối trước những hoàn cảnh éo le. Chúng ta sẽ không hiểu tại sao lại có những thử thách ấy ! Chúa không thương yêu chúng ta sao ? Không thắc mắc, chúng ta hãy bắt chước ông Abraham hoàn toàn tin tưởng phó thác đời mình trong tay Chúa quan phòng, vâng theo thánh ý Chúa, Ngài sẽ lo liệu, và ta hãy tâm niệm rằng :“Khi Chúa đóng cửa chính thì Ngài sẽ mở những cửa sổ”. Ngài sẽ có cách giải quyết.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : St 22,1-2.9a,10-15.
Theo nghiên cứu, người ta thấy dường như việc dùng trẻ con để tế lễ rất thịnh hành vào các thế kỷ thứ 8 và thứ 7 trước công nguyên. Cho nên khi nhắc nhở rằng mọi con đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa, lề luật liền nhấn mạnh đến việc buộc phải chuộc con đầu lòng bởi một của lễ thay thế. Câu chuyện tế lễ Isaac minh hoạ cho lề luật trên, đồng thời nhấn mạnh đến hành động đặc biệt của Abraham.
Thiên Chúa đã hứa với Abraham là ông sẽ trở thành tổ phụ của một dân lớn lao. Ông chỉ có một người con duy nhất là Isaac do bà Sara sinh ra. Thế mà Thiên Chúa đã truyền cho ông phải hiến tế người con yêu dấu của mình. Như thế làm sao có thể dung hoà được giữa việc hiến tế Isaac và lời hứa của Thiên Chúa cho ông có một dòng dõi đông đúc như sao trời cát biển ?
Abraham tiến thoái lưỡng nan, không biết theo con đường nào. Tuy thế, ông đã phải trấn áp nỗi đau khổ của người cha, ông lấy nghị lực đức tin mà thưa “Xin vâng” với thánh ý Chúa. Ông đã làm một việc vượt trên cả mức độ anh hùng. Dù Abraham chưa giết con, nhưng Chúa kể ông đã dâng con cho Chúa. Đức tin và lòng tuân phục của ông sẽ được phần thưởng liền sau đó.
+ Bài đọc 2 : Rm 8,31-34.
Có nhiều người còn nghi ngờ vào tình yêu của Thiên Chúa đến nỗi còn sợ sệt và tuyệt vọng. Thánh Phaolô với giọng điệu cảm kích sâu xa đã tuyên bố rằng không có gì phải thất vọng, bằng chứng là : Thiên Chúa đã không dung tha cho Con Một mình. Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô là bằng chứng hùng hồn của tình yêu Thiên Chúa đối với loài người.
Việc Đức Giêsu bị chết trên thập giá đã khiến chúng ta không còn lý do nào phải hoài nghi và sợ sệt. Lỗi lầm lớn nhất chúng ta có thể vấp phải sẽ là hoài nghi, thiếu tin tưởng :“Nếu Thiên Chúa yểm trợ chúng ta, còn ai chống lại nổi chúng ta” (Rm 8,31) ?
+ Bài Tin mừng : Mc 9,2-10.
Khi đi theo Đức Giêsu, các Tông đồ có cùng hoài bão của người Do thái là Đấng Cứu thế của họ sẽ là Đấng Cứu thế vinh thắng oai hùng tái lập vương quốc của Đavít và Salomon. Nhưng khác với cái nhìn trần tục của các ông, trong kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng Thiên sai sẽ là một “tôi tớ đau khổ và khiêm tốn đã được các tiên tri phác hoạ”.
Để củng cố niềm tin cho các môn đệ trước cuộc thương khó đầy sỉ nhục của Ngài, Đức Giêsu đã đưa ba môn đệ lên núi Tabor, biến hình trước mặt các ông để các ông thấy khuôn mặt sáng ngời của Ngài hầu củng cố niềm tin cho các ông truớc những ngày đen tối sắp tới.
Theo gương các tông đồ, chúng ta cũng phải có một niềm tin như vậy trước gian nan thử thách trong cuộc sống của một Kitô hữu. Hẳn nhiên, cũng như các tông đồ, Chúa cũng dành cho chúng ta những giờ phút sáng tươi hoan hỉ nội tâm để giúp chúng ta đi tới tận cùng điểm dốc Calvê.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA : Từ Tabor đến Golgotha.
I. ĐỨC GIÊSU BIẾN HÌNH.
1. Diễn tiến việc biến hình.
Thánh Marcô cho biết : sáu ngày sau khi thánh Phêrô truyên xưng Đức Giêsu tại Cêsarêa của vua Philipphê, Đức Giêsu đã đưa ba môn đệ yêu quí là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao. Thánh sử không cho biết là núi nào : núi Tabor hay Hermon. Các nhà chú giải Thánh Kinh ngày nay nghiêng về núi Hermon, song cổ truyền cho biết chính Tabor đã được hồng ân ấy.
Vì đi đường mệt nhọc các ông lăn ra ngủ và khi thức giấc, các ông nhìn thấy cảnh lạ lùng : Chúa biến hình, “áo Ngài trắng như tuyết, không thể nào giặt được như vậy”. Có ông Maisen và Elia đàm đạo với Ngài để khuyến khích Ngài đi vào cuộc tử nạn và có tiếng phát ra trong đám mây :“Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Ngài”. Sau đó, Đức Giêsu trở lại tình trạng bình thường. Việc biến hình này có ảnh hưởng sâu đậm đến ba ông.
2. Ý nghĩa việc Chúa biến hình.
Đức Giêsu đã quyết định lên Giêrusalem, và quyết định ấy có nghĩa là chấp nhận thập giá. Ngài cần biết cách tuyệt đối rằng mình đã quyết định đúng trước khi tiếp tục dấn bước. Trên đỉnh núi Ngài đã chấp nhận đôi về quyết định của Ngài.
a) Sự hiện diện của Elia và Maisen.
Maisen là đại diện cho pháp luật và Elia là tiên tri đầu tiên và vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Khi hai nhân vật lỗi lạc đó hội kiến với Đức Giêsu, có nghĩa là nhà tuyên bố pháp luật vĩ đại nhất và nhà tiên tri lỗi lạc nhất đã nói với Đức Giêsu rằng “Xin cứ tiến lên”. Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Đức Giêsu sự hoàn thành của tất cả những gì họ từng mơ ước trong quá khứ. Nó có nghĩa là họ thấy nơi Ngài tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tràn đầy. Dường như chính lúc đó Đức Giêsu được bảo đảm rằng Ngài đang đi đúng hướng vì cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.
b) Biến hình giúp môn đệ vững tin.
Khi nghe Đức Giêsu báo cho họ biết là Ngài sẽ lên Giêrusalem để chịu chết, họ bàng hoàng, bối rối lo sợ vì bao điều mơ tưởng của họ sẽ bị tiêu tan, tương lai của họ trở nên bấp bênh, đen tối. Tuy thế, những gì đã xem thấy trên núi biến hình cho họ có cơ hội bám chặt lấy ngay khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe tiếng của Thiên Chúa xác nhận Đức Giêsu là Con Ngài.
Ngoài ra, việc Chúa biến hình trên núi khiến họ trở thành các chứng nhân cho sự vinh hiển của Chúa Cứu thế theo một ý nghĩa đặc biệt. Xác tín rằng mình là chứng nhân trước sự vinh hiển của Chúa Cứu Thế, sau này khi có dịp, họ đã có sẵn câu chuyện đang giấu kín trong lòng, sẽ kể lại cho mọi người nghe.
c) Lời mời gọi biến đổi.
Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn một cái cây. Tuy nó vẫn là cái cây đó nhưng bên trong đó có biết bao biến đổi : có những chiếc lá tháng trước nay không còn; nhiều chiếc lá mới mọc ra; và nhiều chiếc lá hiện nay sau sẽ không còn. Nếu cái cây vẫn y như thế từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác thì đó không còn là một cái cây sống nữa mà là một khúc gỗ.
Hãy nhìn lên trời, chúng ta cũng thấy qui luật biến đổi ấy : bầu trời hôm qua với bầu trời hôm nay đâu có hoàn toàn giống nhau mặc dù vẫn là một bầu trời.
Hãy nhìn xuống nước. Triết gia Héraclite đã nói :“Không ai tắm hai lần trong một dòng sông”.
Và nhìn vào bản thân : các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn thay đổi, cái này chết cái kia sinh ra, sau 7 năm thì không còn tế bào nào là tế bào của 7 năm trước nữa.
Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đối với cuộc sống thân xác thì như thế. Đối với cuộc sống thiêng liêng thì cũng như vậy. Bởi thế trong mùa Chay chúng ta cần biến đổi. Cứ sống y như cũ là chết (Carôlô, Sợi chỉ dỏ, năm B, tr 134-135).
Việc Chúa biến hình nhắc cho các môn đệ và chúng ta phải thay hình đổi dạng linh hồn mình. Thánh Phaolô cũng nhắc nhở chúng ta phải cởi bỏ con người cũ tội lỗi để mặc lấy con người mới tốt lành thánh thiện hơn :“Hãy lột bỏ con người cũ mặc lấy con người mới. Hãy để Thần Khí Thiên Chúa canh tân tận tâm linh anh em”(Ep 4,22).
Thánh Tông đồ còn khuyên nhủ chúng ta hãy làm một cuộc canh tân toàn diện để cho con người nội tâm của ta biết nghe theo luật của Chúa mà bỏ đường lối của xác thịt. Vì thế, trong thư gửi tín hữu Êphêsô Ngài đã viết :“Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xa xưa, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật”(Ep 4,22-24).
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta phải đổi mới toàn diện, phải đổi từ con người cũ sang hẳn con người mới tốt lành. Đổi mới toàn diện là phải đổi mới tận căn chứ không phải chỉ đổi mới nửa vời hoặc đổi mới hời hợt một số cái, hoặc chỉ đổi mới cái bên ngoài để rồi trở thành con người mà người đời gọi một cách mỉa mai :“Nửa người ngửa ngợm nửa đười ươi”, đúng như người ta nói:
Thay quần thay áo thay hơi,
Thay dáng thay dấp mà người chẳng thay. (Ca dao)
Truyện : Cách làm cho trắng da.
Người ta thuật rằng cả một khu đất kia chỉ có một gia đình người da đen ở. Gia đình đó gồm có một bà vợ, một người chồng và một đứa con trai 9 tuổi. Cậu bé đi học, nhưng giữa bọn trẻ da trắng, riêng mình đen thủi đen thui, nên lắm phen bị chê cười, chế nhạo. Cậu luôn luôn bị chọc ghẹo nên khó chịu, giống như một tấm lòng non nớt bị một vết thương sâu. Sau hết, cậu tự hỏi mình có thể thay đổi nước da chăng, rồi nhất định làm theo ý nghĩ đó.
Bữa nọ, thầy giáo thấy cậu vắng mặt, bèn hỏi đám học trò về cậu. Một trò thưa rằng thấy cậu đi đàng sau trường, giữa khu rừng nhỏ có rạch chảy qua. Thầy giáo ra công tìm kiếm và thấy cậu ở sát bờ rạch, đang dùng cát ướt kỳ cọ hai cánh tay đen. Thỉnh thoảng cậu dừng tay, rửa cát dính vào da, rồi nhìn xem mầu da mất chưa. Nhưng ! Màu đen quá sậm, cậu mất công. Vài phút sau, thầy giáo gọi cậu :
- Này em làm gì đấy ?
Cậu giật mình thưa :
- Con cố sức trừ bỏ màu da đen để nên người da trắng, song không sao được.
(Ms. Lê văn Thái, Những tia sáng, tập 2, tr 94-95)
II. BIẾN ĐỔI VÀ THỬ THÁCH.
1. Thử thách của tổ phụ Abraham.
Bài đọc I hôm nay thuật lại việc Abraham sát tế Isaác con mình. Việc này cho chúng ta thấy cá tính và đức tin của ông. Lệnh truyền sát tế Isaác, người con duy nhất sinh ra trong tuổi già, thì vượt quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, nếu không còn người con trai này ? Thiên Chúa đòi hỏi ông hiến tế luôn cái cơ hội sống còn cuối cùng này của ông, đồng thời cũng là cái nền tảng cho niềm tin của ông. Yêu cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa bất cứ giá nào. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống Isaác được dành lại.
2. Thử thách của chúng ta.
Đường lối Thiên Chúa thật lạ lùng... nhiều khi đường lối Chúa lại chẳng xem ra đi ngược với mục đích đang tìm kiếm sao ? Câu chuyện về hy tế của Abraham khá làm sáng tỏ những phương thức của Thiên Chúa. Quả thật, tất cả chỉ là thử thách trong cuộc đời. Nhưng một khi chân trời mây mù bưng bít, không trông đâu được sự giúp đỡ của loài người, mọi sự dường như mất hết, chúng ta không còn cân nhắc suy tính được nữa, và thất vọng tự hỏi :“Tại sao Thiên Chúa xử như vậy” ?
Nhưng chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chuá luôn yêu thương chúng ta, Ngài đã phó nộp Con Một Ngài trên cây thánh giá vì phần rỗi chúng ta. Như vậy, khi Ngài để cho chúng ta nhờ đau khổ và thử thách kết hợp với sự thương khó của Chúa Kitô, chúng ta chắc chắn rằng, nhờ đó, Ngài cũng muốn liên kết chúng ta vào sự Phục sinh và vinh quang của Chúa Kitô. Do đó, thử thách cũng có ý nghĩa tích cực vủa nó. Không lạ gì khi thấy người ta nói :
Có cứng mới đứng đầu gió (Tục ngữ)
Chính những đau khổ và gian nan thử thách sẽ làm cho chúng ta thêm giá trị trước mặt Chúa, nó thanh luyện chúng ta, nó làm cho chúng ta thể hiện lòng trung thành đối với Chúa. Lúc đó, đức tin của chúng ta mới có giá trị sau khi đã được thanh luyện như vàng ra khỏi quặng:
Có gió lung, mới biết tùng bá cứng,
Có lửa hừng, mới biết thức vàng cao. (Tục ngữ)
Thánh Giacôbê Tông đồ nói về vấn đề này :“Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì khi thành công trong cơn thử thách như thế, người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Thiên Chúa đã hứa cho những ai yêu mến Ngài”(Gc 1,12).
Trong gian nan thử thách, hãy giữ vững niềm hy vọng và tin tưởng phó thác. Nhưng làm sao giữ được niềm hy vọng tâm hồn ? Hãy noi gương Chúa Kitô ! Tất cả cuộc đời Ngài chỉ là một chuỗi phó thác trong tay Chúa Cha. Trong lúc hấp hối Ngài than thở :“Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha”. Sự tín thác mến yêu này là nguồn ơn cứu độ cho hết mọi người và là nguyên nhân của Phục sinh khải hoàn. Chính trong việc chiêm niệm về Chúa Kitô tín thác cho Tình Yêu mà chúng ta múc lấy nghị lực để nói như Ngài :“Lạy Cha, đừng theo ý con, một theo ý Cha”.
3. Thử thách và đức tin.
a) Đức tin cần được thử thách.
Trong những lúc bị thử thách, chúng ta không biết bám víu vào đâu vì những người chung quanh đều bất lực không thể giúp chúng ta. Lúc đó, chúng ta chỉ còn biết dựa vào đức tin để phó thác cho Chúa, xin Ngài đến cứu giúp. Đức tin cũng cần phải được thử thách thì mới có giá trị. Nếu ở trên núi Tabor, ông Phêrô thưa với Chúa :“Lạy Thầy, chúng con ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Elia và một cho Maisen” (Mc 9,5). Các ông muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor, ngủ yên trong hào quang rực rỡ, bỏ lại dưới núi bạn đồng môn, muốn hưởng thụ đầy đủ ánh hào quang của Chúa,thì các ông sẽ nói thế nào ở vườn Cây Dầu và ở đồi Golgotha?
Người đời cũng cảm nghiệm thấy giá trị và ích lợi của thử thách. Chính thử thách làm cho con người thêm giá trị. Con người chỉ được đánh giá đúng qua thử thách như thi sĩ Nguyễn công Trứ nói lại câu nói của cổ nhân :
Văn vô sơn thủy vô kỳ khí
Nhân bất phong sương vị lão tài.
Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta phải có đức tin vững mạnh. Tuy thế đức tin không phải lúc nào cũng ở đỉnh cao, đức tin có lúc lên cao, có lúc xuống thấp theo nhịp điệu vui buồn, sướng khổ, may mắn hay trắc trở.
Khi lên tinh thần, đức tin của chúng ta cũng vững mạnh và sán lạn như đức tin của các tông đồ trong bài Tin mừng hôm nay. Khi đức tin ở đỉnh cao, chúng ta thấy gần gũi Đức Giêsu đến độ chúng ta tưởng rằng có thể đụng rờ được Ngài. Chúng ta cảm thấy gần gũi Thiên Chúa Cha đến độ dường như đôi tay của Ngài đang bao bọc chung quanh ta, và Thánh Thần dường như đang nói với chúng ta. Trái lại, khi xuống điểm thấp, đức tin của chúng ta yếu ớt như muốn mất hẳn, giống như đức tin của các môn đệ ở vườn Cây Dầu (Mark Link).
Áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày, đôi lúc chúng ta cảm thấy đức tin mình ở những điểm cao, lúc đo chúng ta yêu thương hết mọi người. Chúng ta thắm thiết với bạn bè, và chúng ta tha thứ cho tất cả mọi thù địch. Vào những ngày như thế, chúng ta không thể hiểu được chúng ta đã từng cho rằng cuộc đời là khó khăn. Nhưng khi ở những điểm thấp, không có gì là trôi chảy cả :“Chúng ta cảm thấy bị đè nén và đáng thương, bị hiểu lầm, chán nản, bị mất mát thiệt thòi. Đó là lúc chúng ta thấy mình có nhiều kẻ thù hơn là thực tế, và thấy người bạn nào của mình cũng đều có lỗi với mình cả. Vào những ngày như vậy, chúng ta khó mà biết được tại sao có những lúc chúng ta lại nghĩ rằng cuộc đời này là dễ dàng vui tươi” (Anthony Padovano).
b) Tin tưởng và phó thác.
Những lúc gặp đau khổ hoặc gian nan thử thác, chúng ta chỉ còn biết tin tưởng và phó thác cho Chúa. Ngài có thể làm được tất cả trong những cái loài người cho là không có thể, để quyền năng của Chúa được tỏ hiện nơi ta, như thánh Phaolô đã nói :“Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”(2Cr 12,10).
Có câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa : “Khi Thiên Chúa đóng của chính thì Ngài mở ra cửa sổ”. Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó, chúng ta cần nhớ rằng : Thiên Chúa Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Thiên Chúa đóng cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới.
Truyện : Niềm đau tượng hình.
Du khách đến Rôma thường đi thăm ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis, vì phía trên bàn thờ, có một tượng thánh giá rất đặc biệt : bất cứ ai đến quì trước tượng thánh giá và cầu nguyện với tất cả lòng thành đều được sức mạnh và an ủi thâm sâu.
Người ta kể rằng tác giả của thánh giá bằng tượng cẩm thạch này đã mất nhiều năm mới hoàn thành được tác phẩm. Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, ông lại cho kéo xuống và đập bỏ, vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông muốn.
Khi ông bắt tay vào công trình lần thứ ba thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tị nên tìm cách hạ uy tín ông. Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau thương.
Ai cũng tưởng rằng cơn thử thách đã khiến ông bỏ cuộc. Trái lại, ông càng miệt mài chú tâm vào công trình. Người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Đức Kitô. Bức tượng của Chúa Giêsu trên thập giá không còn là một phiến đá lạnh lùng, xa lạ, mà trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ muốn tháp nhập vào (Thiên Phúc, Chuyện hay đông tây, tập 1, tr 159).
Khi gặp những giây phút đen tối, chúng ta hãy bắt chước gương của Abraham trong bài đọc I hôm nay. Niềm tin của Abraham yếu ớt và dường như phai mờ khi ông nghĩ rằng Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy tế con trai của ông là Isaác. Điều đó làm cho ông khổ tâm và bối rối. Nhưng Abraham vẫn tin cậy vào Chúa, và Thiên Chúa không để ông thất vọng. Thiên Chúa đã chúc phúc và ban ơn cho ông hơn cả những ước mơ của ông.
Thiên Chúa cũng thử thách niềm tin của chúng ta như thế. Khi bị thử thách, tâm hồn chúng ta cũng đau khổ và bối rối. Nhưng nếu chúng ta tin cậy vào Thiên Chúa giống như Abraham, thì Thiên Chúa sẽ không để chúng ta thất vọng. Và cuối cùng, Thiên Chúa cũng sẽ chúc phúc và ban ân huệ cho ta nhiều hơn những gì chúng ta mơ ước.
Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một: Ngài là Đức Giêsu sáng láng trên núi Tabor, cũng là Đức Giêsu mướt máu trong vườn Cây Dầu, và cũng là Đức Kitô đau khổ trên thập giá ở đồi Golgotha. Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua : Đường Tình Yêu.
Theo thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu thì :“Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Đức Giêsu ta trèo lên đồi Calvê”. Hiểu được đau khổ là con đường tình yêu, thì thánh nữ Bernadette đã cầu nguyện :“Con không xin cho mình khỏi đau khổ, nhưng chỉ xin Ngài đừng bỏ con trong đau khổ”.
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm, Giáo xứ Kim Phát, Gp. Đà Lạt
7).SCĐ
CHÚA NHẬT II
CHỦ ĐỀ:
CŨNG VÌ THƯƠNG,
THIÊN CHÚA BAN ĐỨC GIÊSU CHO LOÀI NGƯỜI
"Đây là Con Ta yêu dấu. Hãy vâng nghe lời Người" (Mc 9,7)
Minh họa
- Mille images 68 B
- "Đây là Con Ta yêu dấu. Hãy vâng nghe lời Người" (Mc 9,7)
Sợi chỉ đỏ
- Bài đọc I (St 22,1-2.9a.10-13.15-18) : Ngày xưa, Abraham đã tế sát đứa con duy nhất là Isaac. Câu chuyện này chỉ là hình bóng của việc sau này Thiên Chúa ban Con Một Ngài là Đức Giêsu cho loài người.
- Bài Tin Mừng (Mc 9,2-10) : Đức Giêsu chính là Isaac. Trong cuộc biến hình Ngài được Thiên Chúa gọi là "Con yêu dấu" như Abraham đã gọi Isaac.
- Bài đọc II (Rm 8,31-34) : Đức Giêsu là ơn ban cho loài người. Ngài chịu nạn chịu chết là để cứu loài người ; Ngài sống lại ngự bên hữu Chúa Cha là để biện hộ cho loài người.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Trong Mùa Chay, Giáo Hội nhắc chúng ta nhớ những điều rất quan trọng. Chúa nhật vừa qua, Giáo Hội nhắc ta nhớ đến những ơn ban của Chúa. Hôm nay Giáo Hội nhắc ta nhớ đến một ơn quý giá nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, đó là Đức Giêsu, Người Con Một yêu quý của Ngài.
Thiên Chúa ban Đức Giêsu cho chúng ta để Đức Giêsu sống với chúng ta và chúng ta sống với Ngài, sống theo Ngài và sống như Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy chú ý lắng nghe Lời Đức Giêsu và kết hợp thân thiết với Ngài.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúa nhật vừa qua, Đức Giêsu đã kêu gọi chúng ta sám hối, nghĩa là bỏ con được cũ lầm lạc để quay về với Chúa. Chúng ta đã thực sự quay về chưa?
- Đức Giêsu còn kêu gọi chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa. Chúng ta đã làm việc này chưa?
- Đã qua một tuần Mùa Chay rồi, mỗi người chúng ta có dự định cụ thể nào chưa?
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc 1: St 22,1-2.9a.10-13.15-18
Tường thuật chuyện Abraham tế sát Isaac.
Tế sát Isaac là một hy sinh rất lớn của Abraham, vì :
a/ Isaac là đứa con duy nhất mà vợ chồng ông sinh được trong lúc tuổi già ; b/ đứa con ấy lại là tất cả niềm hy vọng của ông về lới Chúa hứa sẽ cho ông một dòng dõi đông đúc ;
b/ bởi thế, Isaac là "đứa con một yêu dấu" của Abraham. Vậy mà ông đành giết nó để dâng cho Chúa.
Tuy nhiên tấm lòng của Abraham đối với Thiên Chúa còn to lớn hơn :
a/ Chúa vừa gọi "Abraham" thì ông đáp lại ngay "Dạ, tôi đây" ;
b/ Chúa muốn ông làm một việc vừa ngược với tình cảm của ông, vừa xem ra cũng ngược với lời Ngài đã hứa (cho ông một dòng dõi đông đúc), ông cũng sẵn sàng làm.
Thiên Chúa coi trọng tấm lòng hơn lễ vật, coi trọng sự hy sinh trong tâm hồn Abraham hơn đứa con mà ông sắp dâng. Cho nên Chúa bảo ông dừng tay. Dù Abraham chưa giết con, nhưng Chúa kể ông đã dâng con cho Ngài.
Đáp ca: Tv 115
Tác giả đang ở trong một hoàn cảnh bi đát "Tấm thân tôi trăm phần khổ cực", hơn nữa đang chứng kiến "cái chết của những bậc thánh nhân", thế mà tác giả vẫn tin vào Thiên Chúa.
Đáp lại đức tin kiên vững ấy, Thiên Chúa đã "bẻ gãy xiềng xích" và cứu thoát tác giả. Ông vui mừng ca tụng Chúa và dâng lễ vật tạ ơn.
Những tâm tình này rất đúng với Abraham.
3. Tin Mừng: Mc 9,2-10
Bài tường thuật Đức Giêsu biến hình. Điểm đáng chúng ta lưu ý nhất là tiếng từ trời "Đây là con yêu dấu của Ta". Câu này là vang vọng của lời Thiên Chúa nói với Abraham về Isaac "Hãy đem Isaac đứa con rất yêu dấu của ngươi… dâng nó làm lễ toàn thiêu" (Bài đọc I)
Như thế, Isaac là hình bóng của Đức Giêsu. Cũng như Abraham đã hy sinh đứa con một yêu dấu của mình, thì Thiên Chúa cũng không tiếc khi ban Đức Giêsu, Người Con Một yêu dấu của Ngài, cho nhân loại để chịu chết cứu chuộc nhân loại.
4 Bài đọc II: Rm 8,31-34
Thánh Phaolô suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời Đức Giêsu và hiểu rằng tất cả đều vì lợi ích cho loài người chúng ta : Khi Đức Giêsu chịu chết là chịu chết "vì tất cả chúng ta" ; và khi Ngài sống lại lên ngự bên hữu Chúa Cha thì cũng là để "biện hộ cho chúng ta".
Đức Giêsu chính là ơn ban tuyệt vời nhất mà Thiên Chúa ban cho loài người.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Món quà ngoài sức tưởng tượng
Các bài đọc hôm nay nói về những món quà vượt sức tưởng tượng.
Abraham là một người sẵn lòng với Thiên Chúa. Ngài bảo ông bỏ quê hương xứ sở mà ra đi đến một nơi vô định. Ông mau mắn làm theo. Thiên Chúa thấy lòng quảng đại của ông, Ngài bảo ông dâng Isaac cho Ngài. Món quà này chắc chắn Abraham không ngờ tới, vì đó không phải là một đồ vật hoặc một con vật mà là một con người. Con người ấy lại là đứa con duy nhất của ông. Hơn nữa nó còn là tất cả hy vọng của ông vì ông sinh ra nó trong lúc tuổi đã già, và ông nghĩ chỉ có nó mới thực hiện được mong ước của ông là có một dòng dõi. Dâng nó đi là dâng tất cả. Thế mà Abraham đã dâng. Một món quà ngoài sức tưởng tượng (bài đọc I).
Nhưng món quà mà Thiên Chúa ban cho loài người còn ngoài sức tưởng tượng hơn nữa. Đó là ban Đức Giêsu, Người Con độc nhất, Người Con thân yêu vô cùng. Hơn nữa, Thiên Chúa ban Người Con ấy để Người Con ấy chịu chết vì tội lỗi loài người, chết thay cho loài người (bài Tin Mừng). Thật chẳng có tấm lòng nào bằng như thế. Chẳng có tình yêu nào cao cả như thế (bài đọc II).
* 2. " Hãy vâng nghe lời Người"
Một hôm nhà vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng một viên ngọc trai lóng lánh và hỏi :
- Ông hãy nói viên ngọc này đáng giá bao nhiêu ?
- Muôn tâu, nó đáng giá còn hơn số lượng vàng khối mà 100 con lừa có thể chở.
- Ông hãy đẫp vỡ nó ra !
- Muôn tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể phung phá một báu vật như thế ạ !
Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.
Kế đó vua đưa viên ngọc cho quan Thị Vệ, cũng hỏi :
- Theo ông, nó đáng giá bao nhiêu ?
- Bằng nửa vương quốc.
- Hãy đập vỡ nó ra !
- Đập vỡ viên ngọc này ư ? Muôn tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được việc đó.
Nhà vua cũng thưởng cho ông này một chiếc áo danh dự, lại còn tăng lương cho ông.
Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul :
- Ngươi có biết viên ngọc này đẹp đến mức nào không ?
- Muôn tâu, đẹp không thể nói được.
- Hãy đập nát nó đi.
Lập tức Abdul lấy hai viên đá đập vỡ viên ngọc ra và nghiền nó thành bụi. Quần thần thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Abdul.
Họ hỏi :
- Tại sao nhà ngươi dám làm thế chứ ?
Abdul bình tỉnh đáp :
- Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào. Tôi tôn kính Hoàng Thượng chứ không tôn kính viên ngọc.
Nhà vua khen ngợi thái độ của Abdul và thưởng chàng trọng hậu hơn cả hai vị quan kia.
Câu chuyện giúp chúng ta hiểu tại sao khi Đức Giêsu biến hình, tiếng Chúa Cha từ trời đã phán : "Đây là Con Ta yêu dấu. Hãy vâng nghe lời Người.
*3. Con yêu dấu Khi đọc bài Tin Mừng hôm nay về việc Đức Giêsu biến hình, tôi chẳng có chút cảm xúc nào cả. Đọc thêm bài đọc I về chuyện Abraham tế sát Isaac, tôi khám phá rằng Isaac là hình bóng của Đức Giêsu, và người cha già Abraham là hình bóng của Thiên Chúa. Và tôi rất xúc động vì tiếng gọi "Con yêu dấu".
Abraham yêu dấu Isaac biết chừng nào vì đó là đứa con duy nhất ông sinh ra được trong lúc tuổi đã già. Chúa Cha cũng yêu dấu Đức Giêsu biết chừng nào vì đó chẳng những là Người Con duy nhất mà còn là Người Con tuyệt hảo của Ngài.
Có người cha nào không tan nát cõi lòng khi đứa con yêu dấu duy nhất của mình phải chết ? Chúa Cha hiểu được tâm trạng này nên Ngài chỉ thử lòng Abraham thôi chứ không nỡ để Isaac phải chết. Thế mà Chúa Cha lại cho Đức Giêsu Con Yếu Dấu của Ngài phải chết thật ! Ôi tình Chúa Cha thương loài người chúng ta bao la và vĩ đại biết chừng nào !
Chúa Cha chỉ mong nơi loài người chúng ta một điều duy nhất là "Hãy vâng nghe Lời Đức Giêsu" thôi. Nếu điều duy nhất ấy mà chúng ta cũng không đáp ứng thì thật là phụ bạc biết chừng nào.
4. Thử thách và biến hình
Bài đọc I nói về thử thách (Thiên Chúa bảo Abraham tế sát Isaac), còn bài Tin Mừng nói về biến hình. Hai khía cạnh này liên kết với nhau và bổ sung cho nhau như hai mặt của một đồng tiền.
- Khi Thiên Chúa mới gọi Abraham, Ngài đã thử thách ông : Ông phải từ bỏ quê hương xứ sở để đi đến một nơi vô định. Vì Abraham trung thành trong thử thách nên Thiên Chúa đã cho ông có con. Trước khi dẫn đời ông sang một biến đổi nữa, Thiên Chúa lại thử thách ông : đứa con duy nhất ấy, Ngài muốn ông giết đi để làm lễ tế cho Ngài. Một lần nữa Abraham đã vâng lời và một lần nữa ông được biến đổi : Isaac vẫn sống và sinh con cháu, nhờ đó Abraham thực sự có một dòng dõi.
- Chúa nhật tuần trước, chúng ta thấy Đức Giêsu chịu thử thách trong sa mạc. Hôm nay chúng ta chứng kiến Ngài biến hình trên núi.
- Học sinh cũng phải thường xuyên trải qua thử thách là các kỳ thi. Nhưng có như thế thì học sinh mới được chuyển cấp, càng ngày càng cao hơn, giỏi hơn…
5. Biến đổi là Quy luật
Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn một cái cây. Tuy nó vẫn là cái cây đó nhưng bên trong nó có biết bao biến đổi : có những chiếc lá tháng trước nay không còn ; nhiều chiếc lá mới mọc ra ; và nhiều chiếc lá hiện nay tháng sau sẽ không còn. Nếu cái cây vẫn y như thế từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác thì đó không còn là một cái cây sống nữa mà là một khúc gỗ.
Hãy nhìn lên trời, chúng ta cũng thấy quy luật biến đổi ấy : bầu trời hôm qua với bầu trời hôm nay đâu có hoàn toàn giống nhau mặc dù cũng vẫn là một bầu trời.
Hãy nhìn xuống nước. Một triết gia đã nói "Không ai tắm hai lần trong một dòng sông".
Và nhìn vào bản thân : các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn thay đổi, cái này chết, cái kia sinh ra. Sau 7 năm thì không còn tế bào nào là tế bào cũ của 7 năm trước nữa.
Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đối với cuộc sống thân xác thì như thế. Đối với cuộc sống thiêng liêng cũng như thế.
Bởi thế trong Mùa Chay chúng ta cần biến đổi. Cứ sống y như cũ có nghĩa là chết.
6. Từ Tabor đến Golgotha
Một Linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng rất sâu sắc như sau :
Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặ"trai tài gái sắc". Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.
Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận :
- Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh !
Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt :
- Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa ?
Tất cả nguyên trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ ‰"người đẹp" là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay"nàng già" là trái táo ăn thừa. Nên chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.
*
Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức Giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hoá giải chứ không gây mê.
Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác dụng : "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Elia" (Mc.9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa.
Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo lên thập giá với Thầy.
Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi. Chúa chỉ mặc
"tấm áo trắng như tuyết" trong chốc lát vì niềm hy vọng Phục sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp. Vẻ đẹp là một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.
Giá trị đích thực chính là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng thủy chung, chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang ngời sáng của Người.
Đức Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Đức Kitô rong ruỗi trên các đường phố Palestina rao giảng chữa bệnh và làm các phép lạ.
Đức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính là Đức Kitô thấm đẫm mồ hôi trong vườn Giêtsêmani.
Đức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha.
Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua : Đường tình yêu. Theo Thánh Têrêxa thành Lisieu "Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê". Thánh Bernadette cầu nguyện : "Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ con trong khổ đau".
*
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục sinh sẽ bừng sáng. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế:
Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã biến hình cho các môn đệ thấy vinh quang của Người, để củng cố đức tin cho các ông, và chuẩn bị các ông đón nhận cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện :
1. Trung thành với Đức Giêsu trong mọi hoàn cảnh là nguồn thách đố cho Hội thánh / chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh luôn tin tưởng bước theo đường lối Đức Giêsu / dù khi được vinh quang hay khi phải trải qua gian nan tử nạn.
2. Trung thành để phục vụ công lý và công ích cho xã hội là nguồn thách đố cho các nhà cầm quyền / Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người có trách nhiệm lãnh đạo trên thế giới luôn can đảm cương quyết / không nhượng bộ những gì vi phạm đến nhân phẩm và nhân quyền của người dân.
3. Nghèo đói, bệnh tật, thất nghiệp, chậm tiến... là những thách đố cho người Việt Nam hôm nay. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người Việt Nam biết can đảm kiên nhẫn / để đoàn kết với nhau và từng bước vượt qua mọi khó khăn.
4. Những khó khăn bên ngoài và bên trong mà Hội thánh ở Việt Nam đang trải qua cũng là những thách đố cho mỗi Kitô hữu Việt Nam /. Chúng ta hãy cầu xin cho các Kitô hữu Việt Nam luôn vững lòng tin cậy / và luôn tích cực phục vụ đồng bào nhất là những người nghèo khổ
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa đã tỏ vinh quang để củng cố đức tin cho các môn đệ khi họ gặp gian truân thử thách. Xin Chúa cũng nâng đỡ đức tin còn non yếu của chúng con để chúng con tin tưởng rằng : nếu cùng với Chúa vượt qua mọi khó khăn hôm nay thì cũng chắc chắn được chung phần vinh quang phục sinh với Chúa mai sau. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Chúa Cha rất yêu thương Ngài và vừa lòng về Ngài. Chúng ta được hạnh phúc thông chia quyền làm con của Đức Giêsu. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài dâng lên Chúa Cha những tâm tình hiếu thảo của chúng ta.
Lúc chúc bình an: Chúng ta hãy chúc bình an cho nhau trong tâm tình mến yêu nhau thực sự ; và cũng hãy nghĩ đến những người xích mích với chúng ta mà hiện không có mặt trong Thánh lễ này, với quyết tâm cũng muốn hòa giải với họ nữa.
VII. GIẢI TÁN Chúa Cha đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban Người Con Yêu Dấu duy nhất của Ngài là Đức Giêsu cho chúng ta và chịu chết vì chúng ta. Chúa Cha chỉ mong mỏi mỗi một điều là chúng ta vâng nghe Lời Đức Giêsu thôi. Trong tuần này, chúng ta hãy luôn tâm niệm lời Chúa Cha nói : "Đây là Con Yêu Dấu của Ta. Hãy vâng nghe lời Người".