Đọc HỌC HỎI TM CNMC 3B
1.
Chúa nhật 3 Mùa chay: Ga 2, 13-25
A. Hạt giống...
Bài Tin mừng tường thuật việc Chúa Giêsu đánh đuổi những người buôn bán trong sân đền thờ Giêrusalem. Hành động này được các nhà chú giải gọi là “Thanh tẩy Đền thờ”.
Thanh tẩy như thế nào? Chính Chúa Giêsu giải thích “Đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”.
Thực ra những thứ được bày bán trong sân Đền thờ cũng nhằm phục vụ cho việc thờ phượng bên trong Đền thờ thôi (cung cấp các lễ vật, đổi tiền cho người ta nộp thuế Đền thờ). Nhưng những thứ đó đã làm lệch lạc sự thờ phượng, vì người bán thì chạy theo lợi nhuận, người mua thì nghĩ rằng có thể dùng những lễ vật ấy để mua lòng Thiên Chúa, thậm chí giới tư tế quản lý Đền thờ cũng ăn tiền hối lộ của những người muốn có một chỗ buôn bán trong sân Đền thờ.
Tóm lại, Đức Giêsu thanh tẩy đền thờ là thanh tẩy một lối thờ phượng lệch lạc, không phải là thờ Thiên Chúa, mà là thờ quyền lợi của mình, dùng lễ vật dâng cho Thiên Chúa để mua chuộc Thiên Chúa để Ngài bảo vệ và củng cố quyền lợi vật chất của mình.
Khi Chúa Giêsu nói với những kẻ chất vấn Ngài “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Ngài ngầm cho biết Đền thờ mới chính là thân thể Ngài. Như vậy, qua hành động thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu còn cho biết thêm: sự thờ phượng đích thực của thời Tân ước là thờ phượng Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.
B...nẩy mầm.
1. Lời Chúa h6một nay mời gọi chúng ta kiểm điểm lại việc thờ phượng của chúng ta:
- Thờ Chúa hay là thờ quyền lợi của chúng ta? Chúa chỉ là một phương tiện mà chúng ta lợi dụng để tìm kiếm và củng cố quyền lợi của mình.
- Khi chúng ta dâng lên Chúa những lời cầu nguyện, những việc lành và những lễ vật thì chúng ta cùng lắm chỉ mới làm như người do thái xưa thôi. Chúng ta có biết kết hợp với Chúa Giêsu, với thập giá và lễ tế của Ngài không?
- Sự thờ phượng đích thực không phải chỉ ở trong nhà thờ, mà còn trong cuộc sống: sống “vì Người, với Người và trong Người”, cho dù cách sống đó là điên rồ và vấp phạm đối với cái nhìn của thế gian.
2. Chúa Giêsu rất hiền từ, nhưng hôm nay Ngài rất giận, đến nỗi Ngài đánh đập người ta, xô ngã bàn ghế, hất tung tiền bạc… Tại sao? Vì Ngài thấy Thiên Chúa bị lợi dụng thành một món hàng buôn bán. Khi ta không thờ phượng Chúa mà chỉ coi Thiên Chúa như một món hàng thì Chúa Giêsu cũng nổi giận như vậy.
- 3. Tâm hồn chúng ta cũng là Đền thờ Thiên Chúa. Hãy coi lại xem trong đó thực sự có Chúa hay không? Hay chỉ có tiền bạc, lợi lộc, thú vui…? Có cần Chúa Giêsu thanh tẩy tâm hồn ta không?
4. Một công nhân hầm mỏ được một anh bạn hỏi:
- Anh làm gì trong Hội Thánh kinh Hải ngoại vậy?
- Tôi làm việc dịch thuật.
- Anh mà đòi dịch thuật?
- Đúng, tôi lo dịch Lời Chúa trong Thánh kinh vào đời sống hằng ngày của tôi(góp nhặt)
5. Một số nhà truyền giáo đến thăm M. Gandhi. Ông đề nghị các Ngài hát một bài Thánh ca.
- “Bài nào?”
- “Bài nào mà qúi vị thấy là diễn tả đức tin sâu sắc nhất.”
Tất cả đồng thanh hát bài Suy tôn Thánh giá (góp nhặt)
6. “Đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”(Ga 2,16)
Khi còn là sinh viên, Mahatma Gandhi đã đi lại khá nhiều tại Nam Phi. Ông đã say mê đọc Thánh kinh và vô cùng cảm kích về bài giảng trên núi của Chúa Giêsu. Mahatma Gandhi xác tín rằng Kitô giáo là giải pháp cho mối ung nhọt phân chia giai cấp đục khoét xã hội Ấn Độ. Ông nghĩ đến việc gia nhập Giáo Hội.
Thế nhưng ngày nọ, khi đến nhà thờ để dự lễ và đón nhận vài lời chỉ dẫn, ông đã thất vọng: vừa đến cửa nhà thờ thì ông bị những người da trắng chận ông lại và nói với ông rằng nếu ông muốn tham dự Thánh lễ thì hãy tìm đến một nhà thờ dành riêng cho người da màu.
Vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta cũng có thể là một chướng ngại vật ngăn cản nhiều người muốn tìm đến với Giáo hội. Một lời nói, một cử chỉ, một cách sống, nếu đi ngược với tinh thần của Tin mừng, đều có thể là một cách xua đuổi người khác ra khỏi nhà thờ.
Lạy Chúa, xin giúp con cải thiện bản thân, để mỗi ngày xứng đáng là đền thờ Chúa hơn, để con là trung gian, nhờ đó con người tìm đến với Chúa và Giáo hội của Người (Epphata)
5.Mầm khác:
2. Quesson
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY
Ga 2,13-25
Gần đến Lễ Vượt qua của người Do Thái. Đức Giêsu lên thành Giêrusalem.
Đức Giêsu là một người Do Thái nhiệt thành sống đạo. Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan đã bảy lần ghi lại Đức Giêsu tham dự những buổi lễ trọng phải hành hương (Ga 5,1 - 6,4 - 7,2 - 10,22 - 11,55 - 12,1 - 13,1), đặc biệt là Lễ Vượt qua vào Mùa Xuân và Lễ Lều trại vào Mùa Thu. Trước hết tôi chiêm ngưỡng đức Giêsu, với tư thế là một người trần, hòa lẫn trong đám đông, đang cầu nguyện ca hát trên bước đường hành hương, rồi trên sân trước của Đền thờ. Cho dù trên thực tế, Đức Giêsu đã sửa đổi rất kỹ những nghi thức phụng tự Do Thái, nhưng về mặt giáo lý Người không chủ trương bài xích. Cuốn phim “Lễ vật toàn thiêu” nhắc lại cho ta thấy sự đau khổ của dân tộc này mà Đức Giêsu là thành phần... một dân tộc luôn mang một định mệnh đặc biệt cách nhiệm mầu. Trang Tin Mừng trên đây của thánh Gioan bắt đầu bằng "Lễ Vượt qua của người Do Thái" (câu 13), và kết thúc với "Lễ Vượt qua của Đức Giêsu” (câu 22) nhằm nhắc lại những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu đều là người Do Thái, là những kẻ "tin vào danh Người trong dịp Lễ Vượt qua" (câu 23). Từ lễ Vượt qua của Người Do Thái" đến " Lễ Vượt qua Kitô giáo", luôn thể hiện cùng một mầu nhiệm khôn dò: Mầu nhiệm phá hủy một đền thờ, rồi nhờ đó lại mọc lên một đền thờ khác...
Người thấy trong Đền thờ có những kẻ bán chiên bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người bèn lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây”.
Tranh ảnh Kitô giáo đã không bỏ sót diễn tả những cảnh này với màu sắc và hành động thật là phong phú. Đức Giêsu đang nổi giận, cầm roi trong tay, xua đuổi “phường buôn bán ra khỏi Đền thờ”. Chúng ta cần phải vượt qua giới hạn của "biến cố" trên, để tìm hiểu ý nghĩa thần học sâu xa của pha cảnh. Trong câu này, ta nhận thấy hình như Đức Giêsu đối xử với "những kẻ bán bồ câu” với thái độ khác thường, tử tế hơn so với những kẻ khác: Vì bồ câu thuộc “lễ vật của người nghèo", lễ vật của những người như Đức Maria xưa kia, đã không đủ tiền để mua những con vật lớn. Ơû đây, đức Giêsu chứng tỏ thái độ ưu ái đối với những người nghèo mà Người không ngừng biểu lộ.
Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi chợ búa.
Những con buôn và phường đổi tiền không nhất thiết là những người xấu. Thực ra, họ đã phục vụ đáng kể đối với các tín hữu từ xa đến, đang cần sắm sửa tại chỗ những lễ vật cần thiết để tiến dâng: Như trường hợp Maria và Giuse, đến đền thờ trong ngày Hiến dâng con mình, hẳn là rất hài lòng gặp được những người buôn bán như thế, để mua sắm một cặp bồ câu non (Lc 2,24). Vì thế, chúng ta dễ sai lầm nếu chúng ta chỉ đọc trang Tin Mừng trên cách hời hợt, nhất là chúng ta chỉ áp dụng trang sách đó... cho kẻ khác. Chúng ta rất dễ nổi giận... dễ dùng lời nói mà không sợ bị liên lụy để chống lại tiền bạc, sự mua bán trái phép, những "ồn ào của bạc tiền" chung quanh bàn thờ, xã hội tiêu thụ, đề cao lợi nhuận trong các nền kinh tế phương Tây. Đức Giêsu quả đã là một người nghèo thực sự... Người đã nổi giận trước vị trí quá lớn của tiền bạc đang ngự trị trong Đền thờ... Chắc chắn là thế! Như vậy, chính chúng ta cũng phải hoán cải về vấn đề này. Lạy Chúa, xin cứu chữa chúng con khỏi lòng dính bén với tiền bạc.
Nhưng điểm cốt yếu của trang Tin Mừng hôm nay không nằm ở đó.
Chúng ta hãy lắng nghe kỹ kiểu nói lạ thường mà Đức Giêsu sử dụng để nói về đền thờ: "Nhà của Cha tôi". Chúng ta quá chán với kiểu nói đó. Tuy nhiên chúng làm cho ta càng phải tìm hiểu sâu xa hơn căn tính của "con người" này, Giêsu thành Nadarét! Trong con người đó đang ẩn chứa một bí nhiệm to lớn biết bao! Giữa Người và Thiên Chúa, có một mối tình yêu thương mật thiết biết bao! Người đang hiện diện nơi nhà mình, trong đền thánh của Giavê. Nơi cực thánh này, chính diện bất khả xâm phạm này, không ai được phép vào trừ vị Thượng tế, mỗi năm một lần (Dt 9,7). Đó là nơi "chí thánh", nơi "tách biệt" với tất cả, "không ai được đụng chạm" đến, không ai bước vào mà không phải chết... Thế mà nói một cách hết sức tự nhiên, đó là "nhà của Cha Người”, là nhà của Người, vì Người là con. Vào lúc 12 tuổi, Người cũng nói như thế, nhưng không ai hiểu cả, ngay cả mẹ Người là Đức Maria: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?" (Lc 2,49).
Vâng! Yếu tố trước nhất trong việc phụng tự mà ta thể hiện với Thiên Chúa, không phải là việc làm bề ngoài (như bò, chiên, bồ câu) mà là tấm lòng con thảo ta đặt vào đó. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi mối bận tâm quá đề cao những nghi lễ, những hình thức bên ngoài.
Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh thánh: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt vào thân" (Tv 69,10).
Đối với Đức Giêsu "Tình yêu Chúa Cha" luôn thiêu đốt Người, noi cách văn vẻ, như ngọn lửa ngốn trọn những nhánh củi khô. Lễ vật dâng tiến Chúa Cha của Đức Giêsu không theo "nghi thức”, nghĩa là những gì ở bên ngoài Người. Người sẽ dâng hiến chính bản thân mình làm lễ vật và trọn cuộc sống Người luôn là một của lễ như thế. Còn đối với tôi việc phụng tự ra sao? Nó mang hình thức nào? Tôi "dự” lễ hay nói "thông phần” vào thánh lễ? Cùng với Đức Giêsu, tôi có được Thiên Chúa khơi lửa nhiệt tình, nung đốt tình yêu và làm cho say đắm không? Ôi lạy Cha, con cũng muốn rằng, từ giờ trở đi, nhà của Cha sẽ làm cho con phải thiệt vào thân vì yêu mến, Nếu đức Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ như thế, chính là vì danh dự và vinh quang của Cha Người đã bị xúc phạm trong việc "buôn bán trái phép" đó. Đức Giêsu quả là một con người say mê Thiên Chúa, sống cho quyền lợi của Thiên Chúa.
Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại. Người Do Thái nói: “Đền thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây dựng lại được sao?”
Ơû đây bản văn Hy Lạp không dùng từ "đền thờ" (iéron) mà là từ “thánh điện" (naos). Và đó không phải là điều ngẫu nhiên, bởi vì trước đó, cùng trong cùng bản văn, Gioan đã sử dụng chính xác từ "đền thờ". "Người thấy trong đền (iéron) có những kẻ buôn bán... và Người xua đuổi họ ra khỏi đền thờ (iéron). Theo nghĩa này, đền thờ là toàn bộ những công trình kiến trúc, kể cả đường dạo chơi, công trường, các sân phía trước. Nhưng giờ đây, Đức Giêsu đi xa hơn nhiều, khi Người nói: "Các ông cứ phá hủy thánh điện (naos) này đi, tai hại biết bao, nếu những người dịch không tôn trọng bản văn! Thánh điện chỉ là phần kiến trúc hoàn toàn bé nhỏ, nhưng quý giá nhất của toàn bộ đền thờ, là trung tâm điểm, nơi Thiên Chúa hiện diện ("shékinah"). Chúng ta đừng quên rằng, Đức Giêsu sẽ bị kết án tử hình do lời tố cáo sai lầm của Người đã tuyên bố: "Tôi sẽ phá thánh điện này và sẽ xây cất lại." (Mt 26,6). Thực sự đó là một lời phạm thượng. Thánh điện này vẫn hoàn toàn mới mẻ, được Hêrôđê cho phép khởi công xây cất 50 năm trước đó. Đó là niềm tự hào của quốc gia, là nơi tôn kính để cầu nguyện và hành hương, mà mỗi năm hàng triệu người tới viếng thăm. Đó cũng là nơi phụng tự “duy nhất" của Itraen. Quả thực, con người này bạo gan mới dám nói như thế! Phát biểu như thế, cũng như người nào đó tuyên bố: "Cứ phá Đền thờ thánh Phêrô ở Rôma đi Hay cứ phá đền thánh Lộ đức nhà thờ Đức Bà ở Paris hay vương cung thánh đường ở Angers...". Thế mà, Đức Giêsu nói năng tự nhiên, không có vẻ gì của một kẻ khiêu khích cả.
Nhưng đền thờ (naos) Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính mình Người.
Đền thờ ở đây, bản văn Hy Lạp dùng từ "thánh điện" (naos). Hiển nhiên, ta đang ở vào trung tâm của trang Tin Mừng trên. Ta thử tìm hiểu thêm, đức Giêsu đã ý thức về mình thế nào. Người biết Người là ai. Người nói, Người là một thánh điện. Đức Giêsu tự tạo cho mình thành "nơi Thiên Chúa hiện diện". Chính thân xác Người là " đền thờ mới"... là nơi "phụng tự mới"... Gioan Tẩy giả đã chỉ Người như chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Phải, Đức Giêsu đã chịu sát tế trên ngọn đồi ngoài của thành, hy sinh vào đúng giờ mà trong Đền thờ người ta đang sát tế nhiều chiên vượt qua, ngày áp lễ "Vượt qua trọng đại” (Ga 19,31). Bằng chính thân xác mình chịu hy sinh Đức Giêsu đến thay thế cho mọi lễ vật và làm cho Đền thờ Giêrusalem trở nên vô tích sự, và màn trong Đền lúc đó có thể bị xé bỏ (Mt 27,51). Từ thân xác đó sẽ tuôn ra "con sông với dòng nước mạnh" (Ga 19,34): Nước và máu đã được ngôn sứ Êdêkien báo trước, sẽ từ thánh điện chảy ra (Ed 41,1-12).
Vậy khi người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó.
Do đó, Lễ Vượt qua của Đức Giêsu và của các Kitô hữu đã kết thúc "Lễ Vượt qua của người Do Thái", như đã đề cập đến ở đầu trang Tin Mừng trên. Đây là cuộc giải phóng phi thường và triệt để, mà cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập chỉ là sự báo trước và là hình ảnh tiêu biểu. Đây là Đền thờ mới, làm vô hiệu mọi nơi thờ thờ khác.
Như vậy, nơi Thiên Chúa hiện diện không còn là một lâu đài nữa, mà là một Đấng nào đó: Đó là Thân mình đức Kitô. Tất cả phụng vụ Kitô giáo chỉ được thể hiện chung quanh thân thể này. Nhưng chúng ta cần hiểu thêm, mầu nhiệm nây còn đi xa biết bao? Sau này thánh Phaolô sẽ nói với các Kitô hữu, các kẻ bốc dỡ hàng tại cảng Côrintô: “Anh em là Thân mình Đức Kitô!" (l Cr 12,27). Đó là cơ sở để xây dựng phẩm giá cao cả của con người: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (lCr 3,16-17).
Như thế, không phải chỉ có "thân xác Phục sinh" của Đức Giêsu mới là Đền thờ mới, mà cả "thân xác của mỗi người đã chịu phép rửa": "Anh em không biết rằng thân xác của anh em là Đền thờ của Thánh Thần, và Thánh Thần đang ngự trong anh em sao?" (lCr 6,19-20). Thánh Âu tinh cũng nói với các tín hữu của mình: "Khi linh mục nói với anh em "Mình Thánh Chúa Ki tô", anh em đáp lại: "Amen" với niềm xác tín anh em đang "hiện diện trong Đức Kitô". Có một bản thánh ca ngợi khen mầu nhiệm này như sau: “Chớ gì chúng con trở nên mình thánh biết sung sướng tạ ơn... chớ gì chúng con trở nên mình thánh, giữ gìn Giao ước của Chúa... ".
Chúng ta luôn có khuynh hướng "ấn định chỗ ở cho Thiên Chúa”, xây dựng cho Người những "nhà tù sơn son thiếp vàng", những "thánh điện" để cô lập Người, gạt Người ra khỏi thế giới, khỏi cuộc sống của ta. Nhưng không có nhà thờ nào, vương cung thánh đường hay đền thánh nào có thể giam giữ Thân mình Đức Kitô được! Anh em là Thân mình Đức Kitô! Tôi là Thân mình Đức Kitô! Khi nhận mình thánh Đức Giêsu, tôi "trở nên" Thân mình của Người, trở nên thánh điện.
Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp Lễ Vượt qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người.
3.
03-Chay-Năm B
(Xh.20,l-17; lCr.l,22-25; Ga.2,13-25)
Theo Chúa vào Đền Thờ
1. Ta sẽ xây đền thờ cho Ta.
Hai anh em nhà kia cùng làm việc chung trong nông trại của gia đình. Người anh có vợ, người em sống độc thân. Họ chia sản phẩm và lợi nhuận đồng đều cho nhau, ngày nọ người em tự nhủ:
- Ta chia lợi nhuận thế nầy thật không thích hợp, vì mình độc thân, anh mình còn vợ con nữa.
Thế là đêm khuya anh xách một giỏ gạo lén đem đổ vào thùng gạo của người anh.
Trong đêm đó, người anh cũng nghĩ thầm:
- Ta chia lợi nhuận đồng đều với em thật không đúng, vì mình có vợ con chăm sóc, còn em mình sống trơ trọi một thân, không ai phụ giúp...
Thế là đang đêm, anh lén xách một túi gạo đổ vào thùng gạo của người em.
Ngày tháng trôi qua, cả hai anh em đều lấy làm lạ, tại sao thùng gạo của mình đầy mãi, Một đêm nọ, cả hai anh em cùng lén xách gạo cho nhau. Nhưng vì đêm tối, họ đụng đầu nhau. Và họ đã hiểu ra sự việc. Họ bỏ túi gạo xuống đất và ôm lấy nhau, cảm động ra nước mắt!...
Trong lúc đó, từ trời có tiếng vọng xuống:
Chính đây là nơi Ta sẽ xây Đền Thờ cho Ta, vì nơi đây anh em gặp nhau trong tình yêu thương phục vụ nhau. Ta sẽ ngự ở nơi nầy... (Theo Minh hoạ Lời Chúa).
2. Đền thờ dành riêng cho Chúa Thánh Thần.
Ngày nọ, có người đang đi ngang tiệm buôn đồ cổ Đại Hàn tại los Angeles (Hoa Kỳ), anh thấy tiệm trưng bày nhiều đồ cổ rất đẹp nên dừng lại xem. Trong các thứ đồ cổ đó, anh chú ý nhất đến một cái chén bằng đồng rất đẹp. Anh liền bước vào hỏi chủ tiệm:
- Ông chủ ơi, cái chén đó giá bao nhiêu?
Người chủ có vẻ tức giận đáp:
- Tôi cấm ông không được gọi cái đó là cái chén.
Người khách không hiểu lý do nào chủ tiệm cấm như thế.
Nhưng vì anh thích nó quá, nên nói:
- Nếu tôi xúc phạm ông điều chi, xin ông tha lỗi. Tôi tưởng nó cũng là cái chén như bao nhiêu chén khác. Nhưng tôi thích nó vì thấy nó đẹp, nên mới hỏi ông giá bao nhiêu, để nếu được thì tôi mua.
Ông chủ dịu giọng đáp:
- Đó là cái chén được chế tạo đặc biệt, chỉ chứa đựng thứ rượu đặc biệt, dùng trong những buổi lễ đặc biệt là lễ cưới của hoàng gia Đại Hàn, và chỉ có một mình vua Đại Hàn mới có quyền uống rượu trong chén đó.
Chúùng ta cũng thế. Chúng ta đã được Chúa Cứu Thế lấy máu thánh Người tẩy sạch tâm hồn chúng ta dành riêng cho Chúa Thánh Thần ngự. Vì thế, chúng ta phải luôn giữ tâm hồn trong sạch nhất là trong Mùa Chay, để tâm hồn chúng ta xứng đáng làm Đền Thờ Chúa Thánh Thần. (Theo chuyện hay ý đẹp).
3. Cẩn thận gìn giữ tâm hồn
Một người Á-rập du mục nằm ngủ trong chiếc lều giữa đêm đông giá rét. Con lạc đà của anh nằm ngủ bên ngoài.
Đến lúc nửa đêm, con lạc đà đút đầu vào trong lều. Thấy ông chủ không nói gì lạc đà được trớn để hai chân trước vào lều,vẫn không thấy phản ứng của ông chủ, nó lết lần cả lữa thân hình vào lều. Nó cũng chẳng thấy chống đối gì, thế là nó lần hồi nằm cả người vào lều. Bỗng ông chủ chợt tỉnh giấc, thấy con lạc đà nằm trọn trong lều thì tức giận đuổi nó ra, nhưng nó trả lời:
- Nếu ông không thích thì hãy bước ra ngoài, vì chiếc lều nầy bây giờ thuộc về tôi.
Kinh nghiệm dạy cho chúng ta biết: nếu chúng ta nhường bước cho ma quỷ, thì lần hồi nó sẽ chiếm trọn tâm hồn ta, thống trị con người ta. Khi đó, tâm hồn chúng ta còn là đền thờ Chúa hay là nơi cư ngụ của nửa qủy?!... (Theo chuyện hay ý đẹp)
4. Dọn nhà rước Chúa đến thăm.
Một hôm có người lạ mặt đến báo tin cho bác thợ giày nghèo là Chúa sẽ đến thăm ông.
Được tin, ông hốt hoảng vì thấy nhà mình hẹp lụp xụp dơ bẩn quá, làm sao xứng đáng tiếp rước Chúa, mấy thuở mà Chúa đến nhà mình. Thật vinh dự quá …..mà cũng bê bối quá!...
Thế rồi ông mở tung cửa ra, chạy ra ngoài đường kêu gọi người đến giúp dọn dẹp nhà cửa. Vừa kêu gọi dứt tiếng, ông chạy vội vào nhà lấy chổi quét, lấy vải lau... Bỗng ông thấy có một người vào giúp dọn dẹp với ông. Vì bận quá, ông không hỏi người đó là ai, từ đâu tới. Và hai người cùng lo làm việc. Họ hốt những đống rác đổ ra ngoài, gom đồ cũ hôi thúi đổ đi, xách nước rửa nền nhà sạch sẽ, quơ cuộn màn nhện giăng cùng nhà...
Làm mệt quá mà công việc còn bề bộn, bác thợ giày than ứhở :
- Nhà cửa dơ bẩn thể nầy, quét dọn chừng nào mới xong.
Người khách bình thản khích lệ:
- Bác cứ yên tâm, Thế nào rồi cũng sẽ xong. Đến chiều, bóng đêm bắt đầu buông xuống, bác phải lo bữa ăn tối. Nhìn lại nhà cửa, bác thấy cũng sạch sẽ gọn gàng, nên nói:
- Bây giờ thì Chúa có thể đến nhà tôi được rồi. Nhưng không biết Người đi tới đâu đây...
Người lạ mặt phụ giúp bác quét dọn nhà cửa từ sáng tới giờ nói:
- Ta đã đến từ sáng tới giờ và phụ dọn dẹp nhà cửa với con đây
Mùa Chay là mùa hồng ân cứu độ, là thời gian thuận tiện Chúa đến viếng tâm hồn chúng ta. Chúng ta cần dọn dẹp ngôi nhà chúng ta sạch sẽ, xứng đáng làm Đền Thờ Chúa ngự. Nhưng Chúa không để chúng ta dọn dẹp một mình. Người sẵn sàng giúp một tay với chúng ta. Người ở bên cạnh khích lệ, nâng đỡ chúng ta. Chúng ta cần cộng tác với Người. (Theo phút cầu nguyện cuối ngày tập II).
5. Thanh tẩy Đền thờ
Vị thánh của dân Ấn Độ là ông Mahatma Gandhi. Trong cuốn nhựt ký Tự thuật của ông, có kể trường hợp đau lòng sau đây:
Lúc du học ở Nam Phi, ông rất thích đọc Kinh thánh, nhất là Bài giảng trên núi của Chứa Giêsu. Ông xác tín rằng Kitô giáo có thể giải thoát dân tộc ông khỏi chế độ giai cấp đồi tệ.
Ông có ý định trở thành Kitô hữu. Ngày nọ, ông cố ý vào nhà thờ dự lễ và nghe giảng để tìm hiểu đạo. Nhưng vừa đến cửa nhà thờ, ông bị người ta chặn lại và bảo:
- Nếu ông muốn dự lễ, mời ông đến nhà thờ dành riêng cho người da đen
Tin mừng hôm nay thuật lại Chúa Giêsu xua đuổi những kẻ buôn bán đổi tiền trong Đền Thờ. Nhà thờ là nơi tôn nghiêm dành riêng để thờ phượng Chúa và đọc kinh cầu nguyện, nhưng người ta đã biến nó thành nơi buôn bán nên Chúa phải xua đuổi họ. Đó là lẽ tất nhiên. Đó là việc làm chánh đáng, vì lòng nhiệt thành lo cho Nhà Chúa của Người. Việc phân biết giàu nghèo, sang hèn, giai cấp, da màu tuyệt đối không thể chấp nhận được, vì Chúa muốn mọi người, mọi dân nước tôn vinh người, thờ phượng Người. Chúa Giêsu muốn nhà Cha Người khỏi bị xúc phạm. Người thấy cần thanh tẩy Đền Thờ. Thái độ quyết liệt của Người mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn chúng ta, nhà thờ của chúng ta. Tâm hồn chúng ta cần được thanh tẩy để xứng đáng làm Đền Thờ Chúa ngự không? Nhà thờ của chúng ta có phải là nơi tôn nghiêm, hay là chỗ để chúng ta hẹn hò, trình diễn áo quần kiểu tóc khoe da thịt sắc đẹp!...
Chúa kêu gọi chúng ta, đặc biệt trong mùa Chay: Hãy đem tất cả những thứ nầy ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành chợ búa (Ga.2,l6). (Theo Như Thầy đã yêu).
4. Tổng hợp
CN III Mùa Chay B
Ga. 2,13-25
15-3-2009
Đức Giêsu tẩy uế bàn thờ …..…Lm. PX Vũ Phan Long, ofm 02
Vì thương, Thiên Chúa dạy ..….Lm Carôlô Hồ Bạc Xái 15
Cuốn phúc âm hay cuốn phim. Lm Mark Link, SJ 24
CN III Mùa Chay – B…….............Lm Augustine, SJ 28
CN III Mùa Chay – B …………….Lm Ignatio Hồ Thông 33
Cơn thịnh nộ thánh của Chúa...Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR 43
CN III Mùa Chay - B ………........Lm Nguyễn văn Phan, CSsR 46
Thân xác chúng ta là đền thờ....Lm Ignatio Trẩn Ngà 48
Thanh tẩy đền thờ tâm hồn........Lm Giuse Nguyễn Thành Long 51
Thánh đường mới.. ………. …....Lm An Phong, OP 55
Giao ước mới………………….....Lm Giuse Đỗ Vân Lực, OP 57
Vì nhiệt tâm với việc nhà ….......Lm Giuse Nguyễn Cao Luật, OP 61
Thanh tẩy đền thờ.… ….............Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng,OP 67
Hảy phá ngôi đền này đi............Lm Giuse Nguyễn Hữu An 70
Thanh tẩy tâm hồn …………......TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 82
Đem tất cả ra khỏi đây... ............Manna 85
Đền thờ, nơi gặp gở Thiên Chúa……............ Giáo phận Vĩnh Long 88
CN III Mùa Chay - B ………,,,.. ........................ Giáo phận Vĩnh Long 92
Đền thờ tâm hồn…………………..................... Giáo phận Vĩnh Long 95
Nhiệt tâm vì nhà Chúa……….. ....................... Giáo phận Vĩnh Long 97
CN III Mùa Chay - B ……………....................... Giáo phận Vĩnh Long 101
Đền thờ……………. ………….. ........................ Giáo phận Vĩnh Long 105
CN III Mùa Chay - B ………….. ........................ Giáo phận Vĩnh Long 107
Nhiệt tâm………….. ………….. ........................ Giáo phận Vĩnh Long 109
Thanh tẩy đền thờ.. ………….. ........................ Giáo phận Vĩnh Long 111
TÌM HIỂU:
Tội và xưng tội………………………. Lm. Nguyễn Hồng Giáo, ofm 114
Ăn chay và ăn mặn………………. ….Lm Anphong Trần Đức Phương118
ĐỨc Giêsu tẨy uẾ ĐỀn ThỜ
Gioan 2,13-25
Đức Giêsu, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, là bạn của kẻ tội lỗi, cũng biết nổi giận khi cần, vì vinh quang của Thiên Chúa Cha.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
I. NgỮ cẢnh
Lần đầu tiên, tác giả Gioan có một bản văn song song với các TMNL (Mc 11,15-19; Mt 21,12-17; Lc 19,45-48). Tuy nhiên, có những khác biệt:
- Trong khi TM IV đặt biến cố này vào đầu sứ vụ của Đức Giêsu, các TMNL lại đặt ở đầu tuần Khổ Nạn.
- Lý do đã thúc đẩy Đức Giêsu can thiệp được gợi hứng bởi các bản văn ngôn sứ, cũng không giống nhau: “một nơi buôn bán” (Ga 2,16) thì nhắm đến chuyện mua qua bán lại, còn “sào huyệt của bọn cướp” (Mc 11,17 và //) thì hàm chứa một cáo giác về sự trộm cắp.
- Cuối cùng, cuộc cãi vã giữa Đức Giêsu và các đối thủ xảy ra ngay sau đó (theo Ga), hoặc lại vào ngày hôm sau (theo các TMNL : Mc 11,28 và //).
Trong quá khứ, người ta thường đề nghị một giả thuyết, theo chiều hướng tương phù (concordism): Đức Giêsu đã đuổi những người buôn bán khỏi Đền Thờ 2 lần, vào đầu sứ vụ (Ga) và cuối sứ vụ (TMNL). Nhưng dường như khó tin được rằng Đức Giêsu có thể lặp lại được một thách đố như thế đối với giới lãnh đạo Do-thái giáo. Đàng khác, giữa bản văn của Ga và của các TMNL có những nét tương đồng, khiến người ta phải nghĩ rằng hầu chắc các bản văn ấy đều đề cập tới một biến cố duy nhất: nơi cả hai bên, ta đều thấy cùng một cơ hội đã khiến Đức Giêsu làm cử chỉ ấy (sự hiện diện của những người buôn bán và đổi tiền trong Đền Thờ), có một lời Đức Giêsu trách mắng những người bán hàng, sự can thiệp của các thủ lãnh Do-thái, và nhất là dây liên hệ chặt chẽ giữa hành động này và cái chết của Đức Giêsu (Ga 2,17.19; Mc 11,18; Lc 19,47). Vậy phải chọn giữa bài của Gioan và bài của TMNL: bài nào đã đặt biến cố này vào đúng thời điểm?
1. Đa số các nhà chú giải Công giáo và nhiều nhà chú giải Tin lành ủng hộ bài của Gioan. Luận điểm chính nằm trong chi tiết về thời gian do Ga 2,20 cung cấp: Công việc xây dựng Đền Thờ bắt đầu từ năm 20/19 tr CG (Fl. Josèphe, Ant XV, 380); vào lúc này là năm 28/27 sau CG: thời điểm này phù hợp với khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu hơn. Khi đó, người ta hiểu các TMNL đã đặt biến cố này vào cuối sứ vụ của Đức Giêsu, bởi vì các TMNL chỉ nói đến một chuyến đi lên Giêrusalem duy nhất và một lễ Vượt Qua duy nhất.
2. Những người nghiêng về các TMNL thì ghi nhận trước tiên rằng dây liên kết giữa thách đố này của Đức Giêsu và cái chết của Người không mấy phù hợp với thời gian khởi đầu sứ vụ của Người. Tại cuộc xử án Đức Giêsu, lời của các nhân chứng nhắc lại câu tuyên bố của Người về việc phá Đền Thờ giả thiết là sự việc mới xảy ra, nên người ta còn nhớ rõ. Nhưng luận điểm mạnh nhất, là tác giả Gioan đã đưa bài tường thuật này ra đầu sứ vụ của Đức Giêsu, vì ngài trung thành với quan điểm ngài đã biểu lộ trong bài tường thuật Dấu lạ Cana (2,4.11): ngài muốn quy hướng toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu ngay từ đầu về “giờ” Khổ Nạn của Người; hơn nữa, Gioan muốn rằng Do-thái giáo chính thức được chứng kiến Đức Giêsu biểu lộ tư cách Mêsia của Người ngay từ đầu, để những người Do-thái phải ở trong một tư thế bị phán xét.
Nói cho cùng, thật khó chọn bài nào, bởi vì cả hai luận đề đều có những lập luận vững chắc.
II. BỐ cỤc
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (2,13-17);
2) Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (2,18-22);
3) Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (2,23-25).
III. Vài điỂm chú giẢi
- Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái (13): Thời gian của dấu lạ này dĩ nhiên gợi nhớ tới lễ Vượt Qua trong đó Đức Giêsu sẽ bị xử tử. Tương quan giữa việc tẩy uế Đền Thờ và cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47t sẽ ghi nhận rằng sự can thiệp của Đức Giêsu, vì kết án cả giới lãnh đạo Do-thái giáo, sẽ khiến các thượng tế và các kinh sư quyết định “giết Người”.
- trong Đền thờ (en tôi hiêrôi, 14): Đây là tiền đường của Đền Thờ (đối lại với naos là Đền Thờ đúng nghĩa, gần gian Thánh và gian Cực Thánh).
- Các môn đệ của Người nhớ lại (17): Sau khi Đức Giêsu sống lại, khi Thánh Thần đã ban cho các ông hiểu các dấu chỉ Thầy đã làm, các môn đệ đã hiểu biến cố hôm nay.
- Người Do-thái (18): Trong thực tế, đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), những người chịu trách nhiệm về tình trạng vừa bị Đức Giêsu kết án. Như ở khắp nơi trong TM IV, tác giả không phân biệt giữa các nhà lãnh đạo và dân Do-thái đã từ chối tin vào Đức Kitô. Vậy phải nói là toàn thể hệ thống phượng tự của dân này đang được đề cập đến.
- Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy) (19): Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy...”. Thật ra, các động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả.
- bốn mươi sáu năm (20): Đền Thờ, với phần cung thánh và tiền đường, đã được vua Hêrôđê rộng tay chi tiền sửa sang lại thật huy hoàng. Khởi công vào năm 16 triều đại ông (x. Fl. Josèphe, Ant. jud., 15, 11, 1) vào năm 734-735 thành Rôma, là năm 20-19 tr. CG, các công việc đã kéo dài cho tới thời Tổng đốc Anbinô, năm 62-64 (Ant. jud., 20, 9, 7). Vào thời điểm của bài tường thuật này, chúng ta ở vào năm xây dựng thứ 46. Lấy khởi điểm là năm 20 hoặc 19, sự cố tẩy uế Đền Thờ đã xảy ra vào lễ Vượt Qua năm 27 hoặc 28. Điều này phù hợp với Lc 3,2, vì bản văn này đã xác định phép rửa của Đức Giêsu xảy ra vào năm 15 triều đại Tibêriô, tức giữa ngày 1-10-27 và 30-9-28.
- là chính thân thể Người (21): Đền Thờ mới sẽ thay thế Đền Thờ cũ đã bị tục hóa chính là thân thể phục sinh của Đức Kitô. Với lời giải thích của thánh Phaolô (x. 1 Cr 3,16 và 12,27; Ep 2,21 và 4,12), Đền Thờ mới là Giáo Hội, thân thể vinh hiển của Đức Kitô phục sinh, và tất cả các tín hữu được kết hợp với Người.
- Vậy, khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại... Họ tin (22): Máccô cứ đều đặn ghi nhận rằng các môn đệ không hiểu. Gioan thì nói cách tích cực rằng các môn đệ hiểu sau khi Đức Kitô đã sống lại (12,16). Chỉ khi Đức Giêsu được tôn vinh, các ông mới được nhận Thánh Thần (7,39), và Thánh Thần mới cho các ông hiểu tất cả những dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện (14,26; 15,26t). Vậy, đức tin của các môn đệ không được liên kết với cuộc Phục Sinh như với một bằng cớ về tính xác thực của những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng như với nguyên do (= nguồn) ban Thánh Thần, là Đấng duy nhất cho phép hiểu.
- Họ tin vào Kinh Thánh (22): Không thể xác định rõ tác giả Gioan ám chỉ tới đoạn Cựu Ước nào. Có thể so sánh Cv 2,24t; 13,34tt, trong đó có những bản văn thường được Giáo Hội tiên khởi nhắc đến trong quan hệ với sự Phục Sinh của Đức Giêsu (đặc biệt Tv 16,10). Chúng ta ghi nhận rằng Kinh Thánh (Lời Thiên Chúa) và lời Đức Giêsu được đặt trên cùng một bình diện (so sánh 18,9.32) để làm nên đối tượng đức tin của các môn đệ.
- nhiều kẻ tin (23): Nhiều người tin rằng Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu nhiệm bản thân Người. Lòng tin của họ chỉ dựa trên các phép lạ, nên không phải là không có giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
IV. Ý nghĩa cỦa bẢn văn
Đức Giêsu cũng tham dự vào một đại lễ khác. Đây không phải là một lễ của một đôi vợ chồng được cử hành bởi gia đình và mọi người thân thuộc trong khung cảnh một thôn làng như Cana ở Galilê, nhưng là lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của Israel, khi đó toàn dân quy tụ lại Giêrusalem. Israel tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi Ai-cập và tạ ơn Thiên Chúa, vì Ngài đã làm cho họ thành một dân độc lập và thành Dân Ngài.
* Đức Giêsu tẩy uế Đền thờ (13-17)
Tại Đền Thờ, Đức Giêsu đã không góp phần cứu lấy và gia tăng niềm vui của ngày đại lễ, nhưng đã hòa vào cảnh sống náo nhiệt trên sân Đền Thờ. Con người đã rảo qua xứ sở cách an hòa (1,29.36) và đã ra tay cứu lễ mừng Cana cách hiệu quả, nay lại tỏ mình ra dưới một phương diện hoàn toàn khác. Là một người khách hành hương vô danh đến từ miền Galilê, Người đã gây ra một sự cố “động trời” tại Đền Thờ Giêrusalem. Theo TM IV, vào chuyến hành hương đầu tiên thuộc đời sống công khai của Người, Đức Giêsu đã bắt đầu hoạt động tại Giêrusalem như thế đó, bắt đầu từ sân dành cho Lương dân, phần ít cao quý nhất của tiền đường, phần duy nhất mà người ngoại quốc được đặt chân đến.
Truyền thống vẫn yêu cầu người ta tỏ ra trang nghiêm kính cẩn tại vùng sân này, chẳng hạn, phải tránh đi qua đó chỉ để đi tắt. Nhưng các quy định này, đặc biệt vào dịp lễ Vượt Qua, không được tuân giữ: do khách hành hương phải chuẩn bị các của lễ đúng quy định (một con bò hoặc một con chiên cho trường hợp những người giàu, một con bồ câu cho trường hợp những người nghèo), và một nửa đồng bạc Do-thái (một siklos, hoặc shéqèl bằng 4 ngày công) đóng thuế Đền Thờ, họ đã mua bán đổi chác gây huyên náo hỗn độn ngay tại đây. Các cửa hàng của những người bán bò và chiên được bố trí dưới các cổng, bàn của những người đổi bạc được đặt ngay ngoài trời, đã biến vùng sân này thành một cửa hàng tạp hóa vĩ đại. Tất cả tùy thuộc cách người ta quan niệm việc thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Hẳn là dân chúng nghĩ rằng có thú vật và tiền lẻ ngay tầm tay và đặt mọi sự dưới quyền kiểm soát của giới hữu trách Đền Thờ là tiện nhất. Nhưng điều này lại không phù hợp với quan niệm của Đức Giêsu về nhà của Cha Người. Người gọi Thiên Chúa là Cha và xác định cách cư xử dựa trên ý tưởng Người có về nhà Thiên Chúa. Không phải là mọi chuyện đều có thể chấp nhận. Không phải là cứ chuyện nào tiện lợi hoặc đưa lại tiền bạc là đúng đắn. Buôn bán thú vật được dùng làm lễ hy sinh là một sinh hoạt đáng trọng, nhưng phải cách xa nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa và nơi người ta tôn kính Ngài. Đức Giêsu thấy có những lạm dụng.
Nay đã được đặt để trong chức năng Mêsia-Con Thiên Chúa, Đức Giêsu không chỉ vào Nhà Thiên Chúa như một khách hành hương, mà còn là người quản lý và chủ nhân. Nếu Người đã làm hành vi chứng tỏ uy quyền này ngay tại Đền Thờ có lẽ là để tự mạc khải ngay giữa lòng Do-thái giáo, trước mặt các nhà lãnh đạo và đám đông đa tạp các khách hành hương, nhờ thực hiện sấm ngôn Malakhi: “Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mới mà các ngươi đợi trông đang đến... Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim... Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi (các thừa tác viên Đền Thờ)...” (Ml 3,1-3).
Không màng tới các rủi ro, Đức Giêsu không ngần ngại nối kết sức lực của cánh tay vào sức mạnh của lời nói để thực hiện nguyện vọng của Cha Người, được diễn tả qua miệng ngôn sứ Dacaria: “Ngày ấy, sẽ không còn lái buôn trong Nhà Đức Chúa các đạo binh nữa” (Dcr 14,21). “Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is 56,7), nhưng “Phải chăng các ngươi coi nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, là hang trộm cướp sao?” (Gr 7,11). Đức Giêsu đã can thiệp với biện pháp rõ ràng và dứt khoát: “Người xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: ‘Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây’” (2,15-16). Trong nhà Chúa Cha, Chúa Cha đang hiện diện; người ta phải suy nghĩ và hành động tương ứng với chân lý này.
Cử chỉ này, trực tiếp nhắm đưa Đền Thờ trở lại với sự thanh sạch vẫn có, dường như có một tầm mức biểu tượng. Bằng cử chỉ này, Đức Kitô muốn nói rằng Người sẽ truất các tư tế mất quyền điều hành Đền Thờ Thiên Chúa và sẽ loại bỏ tất cả các lễ hy sinh thú vật để thay thế bằng lễ dâng tinh tuyền mà Thiên Chúa cũng đã loan báo qua miệng ngôn sứ Malakhi: “Ta chẳng ưng nhận lễ phẩm từ tay các ngươi dâng... Và ở khắp nơi, người ta dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh tuyền kính Danh Ta” (Ml 1,10-11). Đúng là đã tới giờ rồi.
Vào lúc ấy, hẳn là sự can thiệp cương quyết của Thầy đã khiến các môn đệ thắc mắc, nhưng nhất là khiến các ông lo sợ rằng Người sẽ phải gánh chịu những hậu quả tệ hại, từ phía những lái buôn và những thừa tác viên Đền Thờ. Khi đó, các môn đệ đã nghĩ tới tiếng kêu của tác giả Tv 69: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân...”, thiệt thân vì sự nhiệt thành của mình và vì những đối thủ.
Vào lúc chịu Khổ Nạn, khi tuyên bố rằng Thánh vịnh này được ứng nghiệm nơi Người (Tv 69,5; x. Ga 15,15), Đức Giêsu công nhận rằng các ông đã linh cảm đúng: sự nhiệt thành đã thiêu đốt Người bên trong vào lễ Vượt Qua đầu tiên, sẽ thiêu đốt Người hoàn toàn vào lễ Vượt Qua cuối cùng, để biến Người thành một lễ hy sinh “đẹp lòng Chúa hơn bò bê đủ móng đủ sừng” (Tv 69,32). Người chính là Đấng công chính chịu đau khổ để thanh tẩy Đền Thờ và nền phượng tự cũ hầu xây dựng một Đền Thờ mới và thiết lập một nền phượng tự mới (cc.19-21). Việc chuyển đi từ cái cũ sang cái mới sẽ được thực hiện nhờ cái chết của Đức Giêsu.
*Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (18-22)
“Người Do-thái” đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), nhưng cũng là dân Do-thái, đã hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (c. 18). Đây là đề tài căn bản của tất cả những xung đột sau đó giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Do-thái giáo. Người đã yêu cầu trả lại phẩm cách trang nghiêm cho nhà Chúa Cha; điều này không thỏa mãn người Do-thái, cũng như tất cả những gì Đức Giêsu sẽ nói và sẽ làm cũng chẳng thỏa mãn họ (x. 5,16; 6,30; 9,16; 11,45-53). Hẳn là các nhà chức trách Do-thái cảm thấy khó chịu gai chướng bởi một sáng kiến vừa lạ lùng vừa cách mạng như thế: dù không có chức tư tế và không có nhiệm vụ gì ở Đền Thờ, Đức Giêsu vừa kết án một hệ thống được các nhà chức trách chuẩn nhận, mà như thế là tự cho mình có một uy quyền cao hơn uy quyền của họ. Thậm chí Người còn muốn nói là Người triệt tiêu nền phượng tự đã từng được Thiên Chúa thiết lập ở đấy, và như thế là tự gán cho mình có một uy quyền ngang bằng với uy quyền của Thiên Chúa mà Người gọi là “Cha Người”! Bởi vì Người cho rằng Người có một uy quyền thần linh, thì Người phải chứng minh điều ấy bằng cách làm một dấu lạ: một hành động phi thường cho thấy dấu ấn của Thiên Chúa trên sứ mạng cứu thế của Người (x. Mt 11,38; 16,1; Mc 8,11; Lc 11,16; 1 Cr 1,22).
Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy)” (c. 19). Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy...”. Với bối cảnh của cuộc tranh luận, Đức Giêsu dường như ám chỉ việc phá hủy và xây lại ngôi Đền Thờ bằng đá tọa lạc ngay gần bên. Người Do-thái nghĩ ngay đến Đền Thờ ấy, và cho rằng không thể được. Quả thật, phải là điên thì mới nghĩ có thể xây lại trong ba ngày; cũng phải là điên thì mới nghĩ rằng có thể đụng chạm được tới Đền Thờ này! Cứ lấy lương tri mà xét, lẽ ra người Do-thái không nên gán những ý tưởng ấy cho một người có đầu óc sáng suốt: là những người Đông phương, đã quen với giọng văn bóng bảy cũng như những câu nói hiểm hóc, hẳn là họ phải ngờ rằng ở đây có một ý hướng biểu tượng, nhất là những động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả. Nhưng họ cố ý xoáy vào ý nghĩa vật chất, cũng như người phụ nữ Samari khi đề cập tới nước ban sự sống (4,11-15), như những người Do-thái khi đề cập tới bánh ban sự sống (6,34) [xem lời các nhân chứng tạo tòa án (Mt 26,61; Mc 14,58) và những người qua đường (Mt 27,40; Mc 15,29)]. Dấu lạ Đức Giêsu loan báo ở đây tương ứng với câu trả lời cho người Pharisêu trong Mt 12,39t và 16,4.
Người Do-thái quy các lời Đức Giêsu nói vào ngôi Đền Thờ bằng gạch đá nên đã hiểu sai ý Người (x. 3,4). Đức Giêsu đang nói với họ: Các ông có thể giết chết tôi. Các ông có thể đẩy tôi đến thử thách lớn lao cùng cực nhất. Nhưng rồi tôi sẽ hoàn tất công trình của tôi và sẽ tự mạc khải ra vĩnh viễn.
Phần các môn đệ, sau khi Đức Giêsu sống lại, các ông mới hiểu được ý nghĩa của câu nói huyền bí ấy, và “đã tin vào lời Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói” (c. 22). Nhưng ở đây tác giả Gioan cho chúng ta được hiểu trước biến cố ấy: Đức Giêsu nói, không phải về Đền Thờ bằng gạch đá, nhưng hoàn toàn về Đền Thờ là thân thể của Người, nhân tính của Người. Các từ ngữ Người dùng phù hợp với ý nghĩa đó hơn: “Cứ làm tan rã Đền Thờ là thân thể của tôi đi (Các ông sẽ gây ra sự tan rã, cái chết, cho thân thể tôi), và trong ba ngày, tôi sẽ dựng lại (sẽ đánh thức dậy khỏi giấc ngủ ấy)”. Đàng khác, ý nghĩa hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh. Nếu các môn đệ đã linh cảm rằng lòng nhiệt thành của Đức Giêsu đối với ngôi nhà vật chất của Thiên Chúa sẽ khiến Người bị các đối thủ hãm hại (c. 17), Đức Giêsu còn biết rõ hơn các ông rằng cử chỉ này sẽ đưa Người tới cái chết. Như vậy, cái chết đối với Đức Giêsu không phải là một tai nạn bất ngờ hoặc một thất bại không thể tránh được, nhưng là một thử thách Người tự do chấp nhận, để rồi tiếp theo là một Sự Sống dồi dào phong phú hơn. Đã được báo trước như vậy, người Do-thái sẽ không thể coi đó là một chiến thắng, còn các môn đệ không thể coi đó là một cớ vấp phạm được.
Ở đây, ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên này, ta đã thấy rõ các hậu quả của cuộc xung đột sẽ là thế nào và mục tiêu của con đường Đức Giêsu theo là gì: chết và sống lại. Cuộc Phục Sinh sẽ chuẩn nhận cho tư cách của Đấng đã bị đẩy đến một cái chết khốc liệt do việc làm và yêu sách của Người. Do cái chết này, Đền Thờ mới sẽ được xây lên. Đức Giêsu Phục Sinh là “nơi” vĩnh viễn có Thiên Chúa hiện diện với Dân Ngài và có Dân Ngài thờ phượng Thiên Chúa: đây là “ngôi nhà Cha” hoàn hảo. Lời tiên báo của Đức Giêsu một phần cảm hứng từ một sấm ngôn của ngôn sứ Hôsê (Hs 6,2). Theo lời hứa của Đức Giêsu cho ông Nathanaen, các môn đệ khi ấy sẽ thấy Thầy họ là “Bết-Ên” thật, là Nhà Thiên Chúa và Cửa thiên đàng (1,51). Một cách gián tiếp, Đức Giêsu mạc khải cho các thính giả rằng Chúa Cha cư ngụ nơi Người một cách viên mãn và vĩnh viễn (8,16; 10,38; 14,10;16,32) và chỉ nơi Người, các tín hữu mới có thể gặp được Chúa Cha vô hình (14,6-10).
* Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (23-25)
TM IV nổi bật với sự đối kháng giữa Đức Giêsu và các đối thủ. Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, đã lộ rõ các yếu tố tiêu biểu của cuộc chiến đấu này: các người tranh chấp, đối tượng của cuộc tranh chấp và kết luận. Cuộc xung đột liên hệ đến quan niệm đúng đắn về Thiên Chúa: Đức Giêsu nhận biết Thiên Chúa như là Cha Người; tất cả những gì Người làm đều do Thiên Chúa gợi hứng và Người làm chứng về những điều đó; còn các đối thủ của Người lại cảm thấy bị Người gây chuyện, nên yêu cầu Người trưng ra những bằng chứng khác, và họ loại trừ Người. Phần các môn đệ, do đã để cho Người dẫn dắt, các ông đạt tới đức tin và sự hiểu biết đầy đủ. Còn đám đông bị đánh động bởi những gì Đức Giêsu thực hiện; nhưng Đức Giêsu không tin họ, nên Người giữ khoảng cách với họ. Tình trạng xung đột này sẽ đưa Đức Giêsu đến cái chết dữ dội, nhưng Người sẽ được xác nhận trọn vẹn bằng cuộc Phục Sinh.
+ Kết luận
Hôm ấy, Đức Giêsu đã vào Đền Thờ như vào “nhà Cha Người”; hôm ấy, vì yêu thương Chúa Cha, Người đã đuổi những con buôn khỏi Đền Thờ. Vì nhiệt thành lo cho nhà của Cha, vì muốn hoàn toàn dành ngôi nhà này cho Cha, Đức Giêsu đã nổi cơn nghĩa nộ mà bảo vệ quyền lợi của Cha, trong khi vẫn làm chủ chính mình. Như thế, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, là bạn của kẻ tội lỗi, cũng biết nổi giận khi cần, vì vinh quang của Thiên Chúa Cha.
Sau này, đàng sau tấm màn bị xé rách của Đền Thờ và xuyên qua thân thể bầm dập của Đức Giêsu hấp hối, Thiên Chúa xuất hiện, bằng một tấm thân con người thật sự, đầy vinh quang thần linh. Giấc mơ của Cựu Ước, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, nay được thực hiện mãi mãi trong Đức Giêsu Phục Sinh.
V. GỢi ý suy niỆm
1. Theo Đức Giêsu, người ta không thể chấp nhận hay nhượng bộ mọi sự. Người ta có thể thông cảm cho việc trục trặc này, chuyện không xuôi chảy kia. Nhưng khi sự việc liên hệ đến việc thờ phượng Thiên Chúa, thì không được phép có lối suy nghĩ tương-đối-hóa. Khi sự việc liên hệ đến làm chứng cho mầu nhiệm Thiên Chúa, thì không được phép nửa vời. Phần chúng ta, chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta đang có quan niệm nào về “nhà của Cha”, hoặc về nhiệm vụ và mục tiêu mà Ngài đã ban cho con người? Chúng ta có vận dụng trọn bản thân mình cho điều đó không?
2. Các đối thủ của Đức Giêsu cứ đòi Đức Giêsu phải trưng ra thêm các bằng chứng. Lý do không phải là để họ đạt được niềm tin tròn đầy, nhưng nói có vẻ nghịch lý, họ đòi các bằng chứng là để phủ nhận đức tin, để họ có cớ mà nói rằng họ không tin là phải. Toàn bọ TM IV là một bài học với nhiều minh họa về niềm tin như một sự phó thác vào Đấng được Thiên Chúa sai phái tới, là Đức Kitô. Trong những trường hợp nào, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đề những ranh giới dè dặt cho niềm tin tưởng của chúng ta vào Đức Giêsu, chúng ta nêu ra những điều kiện, và chúng ta đòi những đảm bảo?
3. Chứng từ của các môn đệ còn đấy: lời của Đức Giêsu có một trọng lượng như chính lời Kinh Thánh. Nhờ được Kinh Thánh thôi thúc, các ông hiểu lý do khiến Đức Giêsu phải chết; nhờ được lời Đức Giêsu soi sáng, các ông hiểu Đấng Phục Sinh chính là “nơi” vĩnh viễn có sự hiện diện và chăm sóc ân cần của Thiên Chúa. Đấy là một kinh nghiệm quan trọng được chia sẻ cho chúng ta, để hôm nay chúng ta biết tiếp tục dựa vào ánh sáng của Kinh Thánh mà khám phá thêm nữa mầu nhiệm Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể, đã chết và đã sống lại.
4. Để thực hiện được điều này, cần nhận lấy bài học khác của các môn đệ. Các ông đã rảo qua một đoạn đường dài cùng với Đức Giêsu và đã được Người liên tục dạy dỗ, rèn luyện. Chúng ta có thể chờ đợi để được dẫn đến chỗ hiểu biết đầy đủ về con đường của Đức Giêsu và con đường của chúng ta chăng?
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
Vì thương, Thiên Chúa dẠy chúng ta
mỘt cách sỐng khôn ngoan
Ga 2,17
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
I. DẪn vào Thánh lỄ
Anh chị em thân mến
Thế nào là khôn ngoan? Phải chăng là khéo léo để được hơn người, để làm ăn thành đạt, để được người đời khen ngợi? Thế nhưng "lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích gì?" Sự khôn ngoan của thế gian chỉ là ngu dại trước mắt Thiên Chúa. Hôm nay Lời Chúa sẽ dạy chúng ta một cách sống khôn ngoan thực sự sẽ mang hạnh phúc đến cho ta chẳng những ở đời này mà còn cả đời sau. Xin Chúa thương ban cho chúng ta sự khôn ngoan ấy.
II. GỢi ý sám hỐi
· Người khôn ngoan là người sống theo luật Chúa. Thế nhưng rất nhiều lần chúng ta đã vi phạm luật Ngài.
· Thập giá Ðức Giêsu là sự điên rồ đối với thế gian, nhưng là sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa. Nhưng nhiều khi chúng ta trốn tránh thập giá, vất bỏ những thập giá Chúa gởi đến cho chúng ta.
· Thân xác và tâm hồn chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta đã để đền thờ ấy ra dơ bẩn. Xin Chúa thương thanh tẩy.
III. LỜi Chúa
1. Bài đọc I: Xh 20,1-17
Sau khi dân Israel được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập, họ xuất hành qua sa mạc. Khi đến núi Sinai, Thiên Chúa gọi Môsê lên với Ngài và Ngài ban cho dân 10 điều luật.
Thực ra khi mới ra khỏi Ai cập, họ chỉ là một đám đông chưa biết cách sống chung với nhau, chưa có tinh thần tập thể, cũng như chưa có một đức tin chung. Nhờ những điều luật này, họ biết sống với nhau bằng tình thương (phần thứ hai của thập giới: yêu người) và biết sống với Thiên Chúa bằng lòng kính mến (phần đầu của thập giới: mến Chúa).
2. Ðáp ca: Tv 18
Thánh vịnh này ca ngợi luật pháp của Chúa: a/ đó là luật toàn thiện ; b/ rất hữu ích cho cuộc sống ; c/ vì thế nó đáng quý chuộng hơn mọi thứ quý giá nhất ở đời.
3. Bài đọc II: 1 Cr 2,13-25
Thánh Phaolô so sánh sự khôn ngoan của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của thế gian. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa thể hiện rõ nhất nơi thập giá. Nhưng thập giá là cớ vấp phạm đối với người Do Thái và là sự điên rồ đối với người hy lạp. Tuy nhiên sự khôn ngoan Thiên Chúa trổi vượt mọi khôn ngoan của con người.
Vì thế thánh Phaolô tự hào về sự khôn ngoan của thập giá. Ngài hăng hái rao giảng sự khôn ngoan ấy và kêu gọi tín hữu hãy tìm kiếm sự khôn ngoan ấy.
4. Tin Mừng: Ga 2,13-25
Tường thuật việc Ðức Giêsu đánh đuổi những người buôn bán trong sân Ðền thờ Giêrusalem. Ðối với thánh Gioan, điều đáng chú ý nhất là sự nguy hiểm của việc làm này: nó sẽ dẫn Ðức Giêsu tới chỗ chết (c 20: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi. Nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại". c 21 "Ðền thờ Ðức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Ngài").
Nhưng vì nhiệt thành với Thiên Chúa nên Ðức Giêsu dám chấp nhận mọi nguy hiểm (c 17 "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân").
IV. GỢi ý giẢng
* 1. "Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh"
Người thời nay dị ứng với từ "luật" vì cho rằng luật gò bó tự do. Họ ghét chủ trương "vị luật". Chính Ðức Giêsu cũng đả phá chủ trương vị luật. Ngài kịch liệt công kích những người pharisêu vì họ chủ trương như thế.
Thế nhưng Chúa không phá bỏ lề luật: "Ta đến không phải để huỷ bỏ lề luật mà để kiện toàn" (Mt 5,17). Ngài kiện toàn luật thế nào? Bằng cách chỉ cho thấy "trái tim" của lề luật là thương yêu. Ngài tóm lược tất cả mọi lề luật vào 2 khoản là mến Chúa và yêu người. Thánh Augustinô đã hiểu như thế nên đã nói: Ama et fac quod vis, Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm.
Chính Ðức Giêsu nêu gương giữ luật với tất cả tấm lòng yêu thương. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Ngài nổi giận khi thấy người ta làm hại đến sự thánh thiện của Ðền thờ. Vì yêu mến lề luật và nhiệt thành với Thiên Chúa, Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, một việc làm sẽ dẫn Ngài tới cái chết. "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân".
* 2. Sự khôn ngoan của Thập giá
Một vài ý tưởng của Nino Salvaneschi (trong quyển Savoir souffrir):
Không có tình yêu, ta không thể sống
Không có đau khổ, ta không thể yêu
Phải học yêu để sống tốt hơn
Và phải học chịu khổ để yêu nhiều hơn.
Tình yêu là nhung nhớ về cõi trời ; đau khổ là giải thoát khỏi cõi đất. Vì thế trong mọi đau khổ luôn có một cái gì đó của trời, và trong mọi tình yêu luôn có một cái gì đó của đất.
Vui sướng làm cho tâm hồn mềm yếu, đau khổ làm cho tâm hồn cứng cáp. Vui sướng làm thỏa mãn cho riêng mình, đau khổ đi tìm một trái tim khác. Vui sướng làm hư (déformer), đau khổ huấn luyện (former) nhân cách.
Tình yêu đến và đi, đôi khi nó đem lại cho ta một cái gì đó, nhưng đôi khi nó cướp đi tất cả. Tình yêu chỉ cất tiếng hát trong một mùa. Trái lại đau khổ đến thăm ta vào mọi lứa tuổi. Nó đến thì biến đổi đời ta, và trước lúc ra đi nó luôn để lại một cái gì đó.
Dĩ nhiên bạn có thể chấp nhận hoặc từ chối đau khổ. Nhưng nếu chấp nhận thì bạn sẽ bình an. Còn nếu từ chối thì bạn vẫn còn phải chiến đấu mãi với chính mình. Chịu đựng là dấu chỉ kẻ bại trận. Chấp nhận là dấu chỉ của người đang cầm vũ khí để chiến đấu.
* 3. Bài học khôn ngoan
Một thiếu niên đi xem đấu bóng với cha sở, nói với cha rằng anh không thích vâng phục. Anh nói: "Thưa cha, con rất ghét ai bảo phải thế này, thế nọ. Không có tự do trong việc này".
Cha sở không nói một lời. Liền sau đó, họ gặp một biển chỉ đường chỉ hướng đi tới sân chơi. Cha sở làm như không thấy. Cậu bé la lên: "Chúng ta đi sai đường! Thưa cha, cha không thấy dấu đằng kia à!".
Cha sở bình tĩnh trả lời: "Cha thấy chứ, nhưng cha nghĩ đường này xem ra tốt hơn, và cha ghét bị chỉ bảo đi đường này đường kia bởi một biển chỉ đường cũ kỹ. Nó không cho cha tự do hành động".Cậu bé nhận ra bài học, và họ vòng trở lại đi vào hướng sân chơi.
* 4. Tuân giữ lề luật
Một người Do Thái nọ muốn sống thánh thiện nên đến tham khảo ý kiến của một vị Rabbi. Vị Rabbi hỏi:
- Từ trước tới nay anh sống thế nào?
- Rất tốt, thưa ngài.
- Anh nói "rất tốt" nghĩa là sao?
- Nghĩa là tôi không vi phạm giới luật nào cả. Tôi không kêu tên Chúa vô cớ, tôi không tục hóa ngày sabát, tôi không bất kính với cha mẹ, tôi không giết người, tôi không bất trung với vợ tôi, tôi không trộm cắp, tôi không làm chứng dối, tôi không tham muốn của cải và vợ người khác.
Vị Rabbi nói:
- Tôi hiểu. Anh đã không vị phạm giới luật nào cả.
- Ðúng vậy, thưa ngài.
Nhưng vị Rabbi hỏi tiếp:
- Nhưng anh có tuân giữ các giới luật không?
- Ngài hỏi vậy nghĩa là sao ạ?
- Nghĩa là: anh có tôn kính tên Chúa không? Anh có thánh hóa ngày sabát không? Anh có hiếu kính cha mẹ không? Anh có tôn trọng và bảo vệ mạng sống của người khác không? Lần gần đây nhất anh nói với vợ rằng anh yêu nàng là khi nào? Anh có chia sẻ của cải cho người nghèo không? Anh có bảo vệ danh dự và tiếng tốt cho ai chưa? Anh có thường giúp đỡ người khác không?
Người Do Thái ra đi và suy nghĩ miên man. Từ trước tới nay anh chỉ nhìn các giới luật theo khía cạnh tiêu cực nên mọi cố gắng của anh chỉ là làm sao khỏi vi phạm luật. Nhưng nay vị Rabbi vừa chỉ cho anh một cách nhìn mới hẳn: không chỉ cố tránh vi phạm luật, mà còn phải làm những việc tốt mà luật chỉ dạy.
Kitô hữu ngày nay cũng cần lưu ý: Chúng ta tuân giữ lề luật không phải vì sợ Chúa phạt, mà vì yêu mến Chúa. Chúng ta giữ luật không phải để được Chúa yêu, mà chúng ta giữ luật bởi vì Chúa đã yêu ta.
* 5. Sự điên rồ khôn ngoan
Ðức Giêsu quả là điên rồ khi dám đụng tới Ðền Thánh Giêrusalem, vì đó chính là kết tinh của tình cảm, đức tin và niềm kiêu hãnh của toàn dân do thái. Việc Ngài thanh tẩy Ðền thờ mang tính cách trầm trọng chẳng khác gì ai đó dám xé cờ tổ quốc hoặc đập nát tượng lãnh tụ một nước. Cho nên cái giá mà Ðức Giêsu phải trả cho việc này là Ngài sẽ bị giết chết. Bài Tin Mừng hiểu được cái giá đó, nên có câu "Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân".
Còn ông Phaolô thì nói với các tín hữu Côrintô: "Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Ðức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ". Phaolô có đầy đủ mọi điều kiện để làm một Rabbi đáng kính đối với người do thái, hoặc làm một triết gia đáng nể đối với người hy lạp. Thế mà ông bỏ tất cả để đi làm một việc điên rồ là rao giảng về thập giá.
Có nhiều điều trong cách sống của kitô hữu cũng bị người không kitô coi là điên rồ. Do người ta coi thế nên tôi không dám làm? hay dù người ta coi thế, tôi vẫn can đảm làm, theo gương Ðức Giêsu và Thánh Phaolô?
6. Thanh tẩy đền thờ
Mahatma Gandhi, vị thánh của dân tộc Ấn Ðộ, trong nhật ký tự thuật của mình, ông kể rằng khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất thích đọc Kinh Thánh, đặc biệt là "Bài giảng trên núi". Ông xác tín rằng Kitô giáo chính là giải đáp cho hệ thống đẳng cấp đã gây thương tổn cho đất nước Ấn Ðộ của ông từ bao thế kỷ. Ông thực sự nuôi ý định trở thành Kitô hữu.
Ngày kia, ông vào một nhà thờ để dự lễ và nghe giảng. Người ta chặn ông lại ở cửa nhà thờ và nhẹ nhàng cho ông hay rằng nếu ông muốn dự lễ, xin mời ông đến một nhà thờ dành riêng cho người da đen.
Ông ra đi và không bao giờ trở lại.
*
Tin mừng hôm nay thuật lại Ðức Giêsu xua đuổi những người bán chiên bò, chim câu và những người đổi tiền ra khỏi Ðền Thờ. Chắc chắn Người không hề xua đuổi những con người thành tâm thiện chí. Nhà thờ là nơi tôn nghiêm, qui tụ các tín hữu, cử hành phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, mọi người chung một niềm tin, một lời cầu tôn vinh Thiên Chúa. Nhà thờ chính là Hội thánh thu nhỏ, không phải là ngôi nhà kín rào luỹ cấm, trái lại phải mở rộng để đón tiếp mọi người.
Hôm nay Ðức Giêsu phải xua đuổi người ta ra khỏi Ðền Thờ, vì Người không muốn nơi thánh thiêng trở thành cái chợ. Người không muốn nhà Cha Người bị xúc phạm. Người thấy cần phải thanh tẩy Ðền Thờ. Thái độ quyết liệt của Ðức Giêsu đòi chúng ta phải xét lại chính mình.
Dường như không khí chợ búa vẫn vương vấn đầu đây: Người ta hẹn hò vào các giờ lễ, họ đi nhà thờ nhưng mắt trước mắt sau, họ lo trình diễn áo quần kiểu tóc.
· Có kẻ đến nhà thờ để thắp sáng hào quang cho chính mình hơn là cho Chúa.
· Có những đám cưới yêu cầu bật sáng mọi bóng đèn trong thánh đường.
· Có những đám ma nhà thờ phải treo cờ tang phướn rũ như một biển tím, một rừng tang. Ðồng tiền đã che mờ nét tôn nghiêm nhà Chúa.
"Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây" (Ga.216). Lời bất bình đó của Ðức Giêsu vẫn như còn đang nói với chúng ta hôm nay. Người muốn các nhà thờ phải là nơi thờ phượng, nơi tĩnh lặng để con người gặp gỡ Thiên Chúa. Không cần ồn ào, nặng phần trình diễn, cũng không nên máy móc, buồn tẻ khi cử hành các nghi thức phụng vụ. Nếu mỗi thánh lễ là tái diễn Hy lễ thập giá của Ðức Giêsu, Ðấng đã yêu cho đến cùng, thì mỗi thánh lễ cũng mang một sức sống mới của Ðấng Phục sinh. Người chính là Ðền Thờ mới, nơi nhân loại sẽ thờ phượng Thiên Chúa Cha cách đích thực.
*
Lạy Cha, Mùa chay là mùa thanh tẩy các đền thờ: đền thờ vật chất là những thánh đường và đền thờ thiêng liêng là mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con biết thanh tẩy những nhơ nhớp trong tâm hồn, hầu xứng đáng đến thờ phượng Cha trong Ðền Thờ mới là Ðức Giêsu, Con Cha. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
7. Nhà của Chúa
Lời nguyện sau đây được viết trên cửa một nhà thờ nọ:
Lạy Chúa, xin làm cho cánh cửa này đủ rộng để có thể đón tiếp mọi người nào cần đến tình thương của đồng loại, anh em, nhưng cũng đủ hẹp để có thể ngăn chận mọi kiêu căng, ganh tị, bất hòa.
Xin làm cho ngưỡng cửa này đủ phẳng để những bước chân của trẻ thơ và những người lầm đường lạc lối vào đây mà không bị vấp ngã.
Xin làm cho nhà này là nhà cầu nguyện và là cổng dẫn vào Nước Chúa. (Viết theo Flor McCarthy)
V. LỜi nguyỆn cho mỌi ngưỜi
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu là Ðền thờ, mỗi Kitô hữu chúng ta cũng là Ðền thờ sống động của Thiên Chúa. Ðền thờ này cũng cần được thanh tẩy cho xứng đáng hơn. Trong mùa Chay này, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta:
1. Hội thánh là Ðền thờ của Thiên Chúa nơi mọi người hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với nhau /. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mỗi thành phần trong Hội thánh / biết loại bỏ những thái độ giả hình, kiêu căng, chia rẽ, kỳ thị / làm cản trở cho sự hiệp thông đó.
2. Thế giới và các quốc gia là đại gia đình của nhân loại, nhưng luôn trở thành chiến trường về kinh tế và chính trị / Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền / biết loại trừ tất cả mọi hình thức xâm lăng và bóc lột nhau / để các nước tôn trọng và giúp đỡ nhau phát triển.
3. Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa / nhưng nhiều người đã khiến nó trở thành hình ảnh dễ sợ của ma quỉ /Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho họ ý thức sự ghê tởm đó / để bắt tay vào việc sám hối và thanh tẩy.
4. Mỗi người Kitô hữu chúng ta đã trở thành đền thờ sống động của Thiên Chúa / Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng con / không ngừng thanh tẩy mình khỏi mọi tội lỗi nhất là các tội nặng.
Chủ tế : Lạy Ðức Giêsu, vì nhiệt tâm phục vụ Chúa Cha mà Chúa đã thanh tẩy đền thờ, xin ban cho chúng con thêm nhiệt tâm yêu mến Chúa, để luôn thanh tẩy tâm hồn hầu xứng đáng đón nhận dồi dào hồng ân cứu độ của Chúa. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
CUỐN PHÚC ÂM HAY CUỐN PHIM?
Chủ đề: "Các sách Tin Mừng không phải chỉ ghi lại ngôn từ và hành động của Chúa Giêsu, mà còn giải thích ý nghĩa của những ngôn từ và hành động ấy"
Lm. Mark Link, S.J.
Giả như đội quay phim của đài truyền hình có thể vào trong một chiếc máy khuất phục thời gian để bay ngược trở lại hơn 2000 năm về trước, đến thời của Đức Giêsu đang sống. Giả như họ có thể quay phim cuộc đời của Đức Giêsu từ lúc sinh ra tới lúc Ngài sống lại. Và giả như họ có thể đem cuốn phim ấy trở lại trong cái máy khắc phục thời gian.
Hãy suy nghĩ về chuyện đó. Cuốn phim đó sẽ giúp chúng ta bước vào thế giới của Đức Giêsu đang sống một cách chính xác. Nó cho phép chúng ta nhìn thấy những người mà Đức Giêsu thấy, và tuyệt nhất là nó cho chúng ta thấy được chính Đức Giêsu. Nói cách khác, thay vì đọc bài Tin Mừng hôm nay, thì chúng ta xem cuốn phim thời sự về Ngài. Và hiện tại chúng ta có thể thấy Đức Giêsu đang đuổi bọn buôn bán ra khỏi đền thờ. Chúng ta có thể thấy những biểu lộ trên gương mặt Ngài. Chúng ta có thể nghe được chính những lời Ngài nói ra.
Bây giờ bạn hãy cho phép tôi hỏi bạn một câu. Bạn có muốn đổi bốn cuốn Tin Mừng như chúng ta có hiện nay lấy cuốn phim như thế không? Giả sử rằng bạn không có thể có cả hai thứ. Bạn phải chọn một trong hai, cái này hoặc cái kia, bạn có muốn đổi các sách Tin Mừng lấy một cuốn phim như thế không?
***
Nếu có ai đòi hỏi một chuyên gia nghiên cứu các sách Tin Mừng câu hỏi ấy, thì sẽ được ông trả lời: "Tôi muốn giữ lại bốn cuốn Tin Mừng". Ông giải thích rất hay. Ông bảo có rất nhiều người đồng thời với Đức Giêsu đã nghe và thấy những điều Chúa Giêsu nói và làm, nhưng họ không hiểu những lời ấy. Nếu chúng ta cũng chỉ có một cuốn phim về đời sống của Đức Giêsu, có thể cuối cùng chúng ta cũng sẽ hiểu lầm những điều Ngài nói và làm ấy. Chúng ta hãy lấy bài Tin Mừng hôm nay làm ví dụ.
Sau khi Chúa Giêsu đuổi các người buôn bán ra khỏi đền thờ,. Các nhà lãnh đạo Do thái tới hỏi Ngài: "Ông làm gì để chứng tỏ cho chúng tôi thấy rằng ông có quyền làm như vậy không?". Chúa Giêsu trả lời; "Hãy phá đền thờ này đi, rồi trong ba ngày Ta sẽ xây lại". Họ hỏi Ngài: "Ông sẽ xây lại đền thờ này trong vòng 3 ngày sao? Ngày xưa tổ tiên ta phải xây mất 46 năm đấy! "
Sau khi mô tả cuộc đối thoại ấy, thánh Gioan viết: "Nhưng đền thờ mà Chúa Giêsu nói đến chính là thể xác Ngài. Vì thế, khi Ngài từ trong cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lại rằng Ngài đã nói như vậy, nên họ tin vào Thánh Kinh và những gì Đức Giêsu đã nói: nói khác, ngay cả các môn đệ cũng không hiểu hoàn toàn những điều Ngài muốn nói vào lúc đó. Chỉ sau khi Ngài sống lại trong vinh quang thì những điều ấy mới sáng tỏ.
Chúng ta hãy lấy một ví dụ khác, chẳng hạn như những gì xảy ra vào ngày lễ lá, khi Đức Giêsu cưỡi lừa đi vào thành Giêrusalem. Sau khi mô tả quang cảnh ấy, Thánh Gioan viết: "Lúc đó, các môn đệ không hiểu những điều ấy, nhưng khi Đức Giêsu sống lại trong vinh quang, họ mới nhớ lại rằng Thánh Kinh đã nói những điều đó về Ngài" (Ga 12: 16)
Cái gì sau đó đã xẩy ra cho các môn đệ khiến họ có thể hiểu được những điều ấy? Chính là những điều mà Đức Giêsu nói thì đã xẩy ra. Trước khi chết, Đức Giêsu nói với các môn đệ Ngài: "Đấng phù Trợ, tức Thánh linh", mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Ngài sẽ dạy cho các con mọi điều, và sẽ làm các con nhớ lại tất cả những gì Thầy đã nói với các con" (Ga 14: 26). Nói cách khác, những gì khiến cho bốn Phúc Âm có giá trị hơn cuốn phim, chính là những sách Tin Mừng ấy được viết trong ánh sáng của Chúa Thánh Linh khi Ngài đến vào ngày lễ Ngũ Tuần.
Phúc Âm là kết quả của việc làm do Chúa Thánh Linh, nên không phải chỉ ghi lại lời nói và công việc của Đức Giêsu, mà còn ghi cả ý nghĩa sâu thẳm ở đàng sau những lời nói và hành động ấy. Tôi xin minh hoạ điểm này.
Chúng ta đã từng coi mục quảng cáo thương mại trên TV dành cho máy ảnh Polaroid có một cô gái chụp một tấm ảnh vào bữa tiệc mừng sinh nhật. Sau khi cô ta chụp xong, có một mảnh giấy trắng cuộn ra khỏi phía trước ống kính máy Polaroid. Không có gì trên tấm giấy đó cả. Nó vẫn trắng. Nhưng rồi đột nhiên trước mắt chúng ta, hình ảnh và mầu sắc bắt đầu xuất hiện trên tấm giấy trắng ấy. Mới đầu chúng còn mờ nhạt, nhưng lập tức chúng trở thành rõ sáng và sắc nét.
Những biến cố trong cuộc đời Đức Giêsu cũng giống như vậy. Mới đầu chúng dường như giống một tờ giấy trắng, không có gì là đặc biệt cả. Nhưng sau biến cố lễ Ngũ tuần. Thánh linh soi sáng tâm trí các môn đệ Đức Giêsu về những biến cố trong cuộc đời của Ngài. Đột nhiên những ý nghĩa sâu xa của những biến cố này bắt đâu xuất hiện rồi rõ nét giống như hình ảnh trên tờ giấy Polaroid vậy. Sự khác biệt giữa sự hiểu biết của các tông đồ về những giáo huấn của Đức Giêsu trước và sau lễ Ngũ Tuần cũng rõ rệt giống như sự khác biệt giữa giấy Polaroid trước và sau khi nó được trưng ra ánh sáng.
Vì thế bốn sách Tin Mừng được viết ra có giá trị hơn một cuốn phim như đã nói rất nhiều. Chúng không phải chỉ ghi lại ngôn từ và hành động của Đức Giêsu, mà còn giải thích cho chúng ta biết ý nghĩa của chúng. Bốn cuốn Tin Mừng là món quà của Thiên Chúa ban tặng chúng ta. Thánh Giêrônimô gọi những sách Tin Mừng là những "bức thư tình" của Thiên Chúa Cha gửi cho con cái Ngài ở dưới đất.
Mùa chay là một thời gian rất thuận lợi để chúng ta tái khám phá ra quyền năng và vẻ đẹp của bốn Phúc Âm đó. Đó là thời gian thuận lợi để chúng ta nghe Tin Mừng trong thánh lễ một cách chăm chú hơn và với nhiều yêu thương hơn. Quan trọng hơn, mùa chay là thời gian thuận lợi để tập trung cái nhìn của chúng ta vào Đức Giêsu, nhân vật chính của bốn Phúc Âm. Đó là thời gian để chúng ta đặt hết niềm tin vào Ngài. Nếu chúng ta làm như thế, Ngài sẽ tỏ mình ra cho chúng ta vào Chúa Nhật Phục Sinh một cách hoàn toàn mới mẻ, giống như Ngài đã tỏ mình ra cho các môn đệ Ngài vậy.
Để kết thúc chúng ta hãy cầu nguyện. Hãy cám ơn Thiên Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta một món quà là Bốn cuốn Tin Mừng và hãy xin Ngài giúp chúng ta tin tưởng sâu xa hơn vào những cuốn sách đó.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, chúng con cám ơn Cha đã ban cho chúng con món quà là bốn cuốn Phúc Âm. Xin hãy giúp chúng con yêu mến và quí trọng những cuốn sách đó. Xin hãy giúp chúng con biết cách tự đặt mình vào địa vị các tông đồ để chúng con có thể nhìn và nghe những gì các ngài đã nhìn và đã nghe. Nhất là xin giúp chúng con sống theo bốn cuốn Tin Mừng đó. Xin hãy chỉ cho chúng con biết cách áp dụng Tin Mừng vào cuộc sống, để khi cuộc sống này hết hạn, chúng con sẽ được tham dự vào sự sống của Cha đến muôn muôn đời.
Lm. Mark Link, S.J.
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY - B
Lm. Augustine, SJ
Ðức Giêsu mang lại những cái mới
Bài Tin Mừng hôm nay đặt ta giữa một loạt những điều mới mẻ do Ðức Giêsu mang lại. Tại Cana, Người mang lại rượu mới từ nước lã (Ga 2,1-12). Cái mới được loan báo cho ông Nicôđêmô là cuộc "sinh ra bởi nước và Thần Khí" như điều kiện để gia nhập Nước Thiên Chúa (3,5). Cái mới mà Ðức Giêsu khẳng định thực sự đã đến khi Người tuyên bố: "Giờ đã đến - và chính lúc này đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và trong sự thật" (4, 23).
Riêng với bài Tin Mừng hôm nay, cái mới được loan báo lại là chính Thân Thể Người (2,21)! Tại sao vậy? Thưa, vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Câu Thánh Vịnh 69,10 này được trích khi tác giả Tin Mừng Gioan đặt động từ thiệt thân ở thì tương lai (sẽ phải thiệt thân) để chỉ về cái chết Ðức Giêsu phải chịu như hậu quả của lòng nhiệt thành của Người đối với nhà Chúa. Trong thực tế trước Thượng Hội Ðồng Do Thái Giáo, Ðức Giêsu sẽ bị tố cáo "Tên này đã nói: Tôi có thể phá Ðền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày, sẽ xây cất lại" (Mt 26,61). Rồi khi bị đóng đinh trên thập giá, Người sẽ bị kẻ qua lại nhục mạ: "Mi là kẻ phá được Ðền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi!" (27,39-40).
Trở lại với bản văn Tin Mừng hôm nay điều nổi bật là cơn thịnh nộ của Ðức Giêsu. Ta đặt mình vào bối cảnh trong đó Người tỏ ra không thể đội trời chung được với cái thế giới làm cho Ðền Thờ bị tục hoá. Người nhận lấy sứ mạng tẩy uế nơi thánh. Bản văn cho thấy trước hết là bối cảnh (2,13). Kế đến là sự kiện (cc.14,15 và 16). Sau cùng là những suy nghĩ (cc.17-22).
Về bối cảnh, hãy coi tầm quan trọng mà tác giả dành cho đoạn văn này. Ðây là đoạn đầu về đời công khai của Ðức Giêsu. Mặc dầu trước đó đã có phép lạ tiệc cưới Cana, nhưng cách nào đó tại tiệc cưới này Ðức Giêsu còn hành động cách kín đáo. Người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết) ông mới gọi tân lang lại và nói: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ!" (Ga 2,10). Còn ở đây, ngược lại, là hồi đầu của cuộc đời công khai trong đó Ðức Giêsu hành động một cách chính thức và công khai. Thời điểm mà người chọn cho hành động đó cũng rất quan trọng đối với đời sống phụng tự của người Do thái: "Lễ Vượt Qua của người Do thái gần đến." Ðộc giả nhớ rằng sách Tin Mừng thứ bốn được đặt ăn nhịp với tiến trình của những cuộc lễ mà chính yếu là lễ Vượt Qua về cuối đời Ðức Giêsu. Chính với lễ này phụng vụ mới về đời Chúa được khai trương. Vậy lễ Vượt Qua của người Do thái gần đến, Ðức Giêsu lần đầu tiên lên Giêrusalem cách chính thức và công khai.
Ðức Giêsu nổi giận trước cảnh Ðền Thờ bị tục hoá
Thế rồi sự kiện xảy ra như thế nào? Ðức Giêsu thấy Ðền Thờ bị biến thành cái chợ! Người ta đang bán bò, chiên, chim bồ câu. Ðức Giêsu còn thấy những người đang ngồi đổi tiền. Tại sao đổi tiền? Vì tiền của chính quyền thực dân không thể xài được vào việc dâng cúng nên phải đổi nó ra tiền của Ðền Thờ thì mới dâng cúng được. Vậy Người lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Ðền Thờ. Bất kể tới tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra khi lật nhào bàn ghế của họ.
Ở đây ta có hình ảnh một Ðức Giêsu nổi nóng. Người vớ lấy bất cứ thứ gì, chẳng hạn dây rợ, để bện thành roi. Ðó là dụng cụ Người dùng để xua đuổi những người đang buôn bán ra khỏi Ðền Thờ. Làm hành vi tẩy uế đó xong, Người mới cắt nghĩa ly do khi nói với những kẻ bán bồ câu rằng: "Ðem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." (c.16)
Kế đến trong bài Tin Mừng là ba suy nghĩ như sau. Trước hết các môn đệ nhớ tới lời Kinh Thánh "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân" (c.17). Ở đây, các môn đệ áp dụng câu Thánh Vịnh 69,10 này trực tiếp cho số phận của Ðức Giêsu. Người sẽ bị thiệt mạng do âm mưu của giới lãnh đạo Do thái giáo. Nhưng với Ðức Giêsu, hành vi nhiệt thành của Người, thuộc về đạo làm con vì Người nói: "Ðừng biến nhà CHA TÔI thành nơi buôn bán." (c.16).
Người Do thái đòi Ðức Giêsu phải làm dấu lạ để chứng minh Người có quyền hành xử như trên (c.18). Nhưng Ðức Giêsu đã không làm phép lạ. Người cắt nghĩa màn Tin Mừng này qui về thân thể của Người là thân thể sẽ trở nên Ðền Thờ cuối cùng của Thiên Chúa (cc.19-22).
Ðiều nổi bật trong bài Tin Mừng là tội được mạc khải như hành vi tục hoá Ðền Thờ của Thiên Chúa. Thay vì thờ phượng Thiên Chúa, người ta đặt ngẫu tượng lên để tôn thờ.
Mọi tội đều là hành vi tục hoá công trình của Thiên Chúa. Con người được Thiên Chúa dựng nên để tán dương, tôn kính và phụng sự Người. Mọi sự khác đều được dựng nên để giúp con người thể hiện mục đích cao cả đó. Tội khiến con người hành động ngược lại với ý định của Thiên Chúa nơi công trình của Người bằng cách đặt ngẫu tượng lên để tôn thờ! Thư thứ nhất của Gioan nêu ba loại ngẫu tượng đặc trưng, đó là: "dục vọng của xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình" (2,16). Dục vọng của xác thịt chỉ về những ham muốn vô trật tự của bản tính loài người, trong đó phải kế tới dục tình đang đe dọa trầm trọng tương lai của xã hội loài người. Dục vọng của đôi mắt chỉ về lòng tham của con người muốn sở hữu tất cả những gì mắt thấy bất kể tới đức công bằng và nhu cầu của người khác. Cuối cùng là thái độ cậy mình có của. Nó phát sinh từ tính kiêu căng tự phụ. Kẻ kiêu căng luôn tìm quyền lực để thống trị người khác. Ðó là gốc gác của biết bao cuộc chiến từng xảy ra trong lịch sử.
Những dục vọng ấy sẽ trở thành ngẫu tượng khi trở nên giá trị tuyệt đối. Chúng sẽ thay thế Thiên Chúa để điều khiển con người. Và khi ấy không còn phải là đền thờ được xây dựng bằng đá hay bê tông bị tục hoá, nhưng là chính con người bị tục hoá như lời thánh tông đồ Phaolô nói: "Nào anh em chẳng biết anh em là Ðền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá hủy Ðền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì Ðền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Ðền Thờ ấy chính là anh em." (1Co 3,16-17).
Vậy cơn thịnh nộ của Ðức Giêsu nói lên lòng nhiệt thành chính Người mang nặng. Nó thúc đẩy Người dấn thân giải thoát những ai bị dục vọng kềm kẹp. Thực ra, chỉ thân thể Ðức Giêsu chịu chết nay được phục sinh mới thực sự là Ðền Thờ mới, là nơi loài người có thể phụng thờ Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật.
Phàm ai ở trong Ðức Kitô đều là thọ tạo mới
Một cách chính xác thánh Phaolô khuyên người Kitô của mọi thời là: "Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện." (Ep 4,22-24).
Vậy sứ điệp cơ bản của bài Tin Mừng hôm nay cũng giống sứ điệp của tông đồ Phaolô khi viết: "Phàm ai ở trong Ðức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, cái mới đã có đây rồi." (2Co 5,17).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Ðức Giêsu thanh lọc Ðền Thờ như thế nào?. Theo thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Eâphêsô, việc thanh lọc đó cần được tiếp tục như thế nào do chính các Kitô hữu chúng ta?.
2. Tại sao cần phải thanh lọc "dục vọng của xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình" (1Ga 2,16)?
3. Bạn hiểu như thế nào về câu nói "Mọi tội đều là hành vi tục hoá công trình của Thiên Chúa"? Bạn nhận xét như thế nào về trào lưu tục hóa đang dâng lên trên đất nước Việt Nam? Nhưng trào lưu tục hoá đã là tội chưa? Nó có liên hệ gì tới hạnh phúc của gia đình bạn và xã hội bạn đang sống?
Lm. Augustine, SJ
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY
Lm. Ignatiô Hồ Thông
Chúa Nhật III Mùa Chay nầy có thể gọi "Chúa Nhật về sự thánh thiện của Thiên Chúa".
Xh 20: 1-17
Bản văn Xuất Hành trình bày mười giới luật hay Thập Giới. Việc thờ phượng Thiên Chúa chân thật và tôn kính Danh Thánh của Ngài được định vị ở hàng đầu tiên của Thập Giới.
Ga 2: 13-25
Tin Mừng Gio-an tường thuật hoạt cảnh Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, bởi vì họ làm ô danh nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài..
1Cr 1: 22-25
Ở giữa bài đọc I và bài Tin Mừng, bài đọc thứ hai được trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô chiếm một chỗ đặc biệt cho biến cố Tử Nạn sắp đến gần: Đấng Mê-si-a bị đóng đinh là hình ảnh không thể chấp nhận được đối với người Do thái và điên rồ đối với dân ngoại, nhưng đó lại là sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I Xh 20: 1-17
Sách Xuất hành là cuốn sách thứ hai trong bộ Ngũ Thư. Sách tường thuật cuộc xuất hành ra khỏi Ai-cập và thời kỳ đầu tiên dân Do thái hành trình trong sa mạc. Biến cố được định vị có lẽ vào thế kỷ thứ mười ba trước Công Nguyên (giữa 1250 và 1230).
Ông Mô-sê không chỉ thi hành sứ vụ giải phóng dân Do thái ra khỏi cảnh đời nô lệ ở Ai-cập, nhưng sau khi đã quy tụ dân Thiên Chúa trong sa mạc, ông cho họ Lề Luật.
Thập Giới chỉ là một phần rất nhỏ của Luật Mô-sê, nhưng phải nói nó là cơ sở của Luật Mô-sê. Có hai bản văn Thập Giới: bản văn của sách Xuất Hành (Xh 20: 1-17) và bản văn của sách Đệ Nhị Luật (Đnl 5: 6-21) với vài dị biệt. Hai bản văn nầy đều cho thấy chúng không còn nguyên bản nhưng được khai triển rồi; vài chi tiết rõ ràng ngỏ lời với dân chúng không còn hành trình trong sa mạc nhưng đã định cư lập nghiệp rồi. Hình thức nguyên thủy của Thập Giới chắc chắn thì ngắn gọn hơn.
1. Tính chất lâu đời:
Tính chất lâu đời của Thập Giới là chắc chắn; nó đã được ghi khắc trên hai bia đá, đây là nét đặc trưng của tính chất cổ xưa. Mặt khác, cách trình bày của nó nhắc nhớ vài hiệp ước được soạn thảo ở miền Cận Đông, giữa những thế kỷ thứ mười lăm và mười ba trước Công Nguyên, nhất là những hiệp ước được ký kết giữa các vua Hít-ti và các vua Sy-ri hay giữa vua Hít-ti và Pha-ra-ô Ai-cập. Vị bá vương đề nghị giao ước của mình trước tiên nhắc nhở những ân phúc mà vua đã ban cho chư hầu của mình. Cũng vậy, Đức Chúa nhắc nhở cho dân Do thái rằng Ngài đã can thiệp để giải phóng họ khỏi vùng đất nô lệ, và Ngài ngỏ lời với họ như với những con người tự do, nhưng bù lại, Ngài đặt ra những yêu sách của mình.
2. Ngoại cảnh:
Khung cảnh là núi thánh Xi-nai. Ở viện bảo tàng Louvre, có một tấm bia đá trên đó ghi khắc Bộ Luật Ba-by-lon của vua Hammourabi, vào thế kỷ thứ mười tám trước Công Nguyên. Ở đỉnh của tấm bia đá nầy như ở đỉnh của một ngọn núi, biểu thị thần Shamash và vua Hammourabi. Vua nầy nhận được danh xưng: "Vua Công Chính mà thần Shamash đã ban luật".
Làm thế nào không liên tưởng đến vua Minos, vào cũng một thời kỳ, suốt chín năm vua leo lên ngọn núi thánh Crète để suy niệm và cầu nguyện; sau đó vua nổ lực làm cho sự công chính ngự trị trong vương quốc của mình.
Thế giới của thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên có những truyền thống chung và sử dụng những hình ảnh tôn giáo tương tự nhau.
3. Nội dung của Thập Giới:
Thập Giới dâng hiến một tổng đề của những bổn phận tôn giáo và luân lý. Vả lại, con số mười đánh dấu sự viên mãn.
Tám trong số mười giới luật được phát biểu theo hình thức phủ định để diễn tả lệnh cấm: "Ngươi không được…" Hai theo hình thức khẳng định để diễn tả lệnh truyền: tuân giữ ngày sa-bát và giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ.
Hình thức phủ định nhắc nhớ hình thức mà chúng ta gặp thấy trong sách của Ai-cập với nhan đề "Những người đã qua đời". Người qua đời tự bào chữa mình trước tòa án của thần Orisis, thần của những người chết:
Tôi đã không ăn cắp…
Tôi đã không giết người…
Tôi đã không nói láo…
Tôi đã không ngoại tình…
Tôi đã không làm chứng gian…
Tôi đã không khinh thường Thiên Chúa trong lòng…
Luân lý của người Ai-cập gần luân lý kinh thánh hơn luân lý của người Ca-na-an và của những dân tộc khác miền Cận Đông hay luân lý của người Hy-lạp.
Thập giới được phân chia thành những giới luật nhắc nhở những bổn phận đối với Thiên Chúa và những bổn phận đối với người thân cận.
3.1- Bổn phận đối với Thiên Chúa:
Những bổn phận đối với Thiên Chúa cốt yếu là những cảnh giác được ngỏ lời với dân Do thái khi định cư ở giữa dân ngoại. Không được tạc tượng vẽ hình các ngẫu tượng; không được phủ phục tôn thờ những thứ đó; phụng thờ Thiên Chúa độc nhất. "Đức Chúa, Thiên Chúa ghen tuông" là cách diễn tả tính không nhân nhượng của Ngài. Đoạn văn nầy chứa đựng một ghi nhận hùng hồn bằng số: những kẻ ghét Ngài, Ngài phạt con cháu đến ba bốn đời, nhưng những ai yêu mến Ngài, Ngài giữ trọn niềm nhân nghĩa đến cả ngàn đời. Cách nói song đối nghịch đảo nầy diễn tả lòng xót thương nhân hậu vô cùng tận của Thiên Chúa: Ngài trừng phạt trong một thời hạn, nhưng tấm lòng thương yêu của Ngài thì vô bờ bến.
Tuy nhiên, trong Thập Giới chúng ta không gặp thấy lệnh truyền: "Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em". Cách thức phát biểu nầy muộn thời hơn xuất hiện trong sách Đệ Nhị Luật (6: 5, thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên) và chịu ảnh hưởng của các ngôn sứ, A-mốt và nhất là Hô-sê (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên).
Giới luật sau cùng đối với Thiên Chúa liên quan đến định chế ngày sa-bát; đây là lệnh truyền duy nhất của nhóm nầy: "Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát…". Lệnh truyền nầy nhằm nhấn mạnh nét đặc thù của dân Ít-ra-en: mọi ngày sống trong một tuần phải hướng đến ngày sa-bát, ngày của Chúa, Đấng đem lại ý nghĩa cho cuộc sống.
3.2- Bổn phận đối với đồng loại:
Những bổn phận đối với tha nhân trở về với luân lý phổ quát; chúng có giá trị luôn mãi và khắp nơi. Nhưng ở đây điều cốt yếu là: tôn trọng gia đình, con người và của cải. Tuy nhiên, chúng ta lưu ý rằng những ý định ẩn kín ở trong lòng được gợi lên ở đây: "Ngươi không được ham muốn…" Căn nguyên tội lỗi ở trong tâm trí con người. Khẳng định nầy chuẩn bị giáo huấn của các ngôn sứ và của chính Đức Giê-su.
Cuối cùng, chúng ta ghi nhận rằng huấn lệnh "Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình" cũng không được gặp thấy ở Thập Giới. Lệnh truyền nầy được gặp thấy ở sách Lê-vi (19: 18), thuộc công trình biên soạn sau nầy.
4. Nét độc đáo của Thập Giới:
Tuy nhiên, Thập Giới bày tỏ nét độc đáo của riêng mình. Chắc chắn nó dựa trên luân lý tự nhiên, nhưng nguồn gốc của nó thì siêu việt. Thập Giới chủ yếu lấy sự thánh thiện của Thiên Chúa làm gương. Luân lý của Thập Giới trổi vượt trên luân lý của dân ngoại chung quanh, nhất là ở nơi lời kêu gọi phong tục tập quán tinh tuyền và tấm lòng ngay thẳng chính trực. Tính siêu việt nầy sẽ đảm bảo sự thăng tiến tinh thần của một dân tộc nhở bé có vận mệnh đặc biệt.
Thập Giới được đặt ở dưới dấu chỉ lịch sử của cuộc giải phóng khỏi Ai-cập. Chúng ta hãy đọc lại lời mào đầu: Đức Chúa không phán như thường lệ: "Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi: Thiên Chúa của Áp-ra-ham, của I-sa-ác và của Gia-cóp", nhưng "Ta là Đức Chúa, Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ". Đức Chúa tự giới thiệu mình như Đấng giải phóng. Chính khỏi ách nô lệ khác mà giờ đây Ngài muốn giải phóng dân Ngài: ách nô lệ của tội lỗi, để làm cho họ thành một dân thánh.
BÀI ĐỌC II 1Cr 1: 22-25
Chúng ta gặp lại thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Cô-rin-tô mà chúng ta đã nghiên cứu nhiều đoạn văn trong suốt những Chúa Nhật thường niên.
Đoạn trích ngắn mà chúng ta đọc hôm nay được cấu trúc rất chặc chẽ. Một cách nào đó, đoạn trích dẫn nầy tự nó là đủ; tuy nhiên, chúng ta hiểu rõ hơn chiều kích của nó trong ánh sáng của văn mạch.
Xin được nhắc lại một cách ngắn gọn: những bất hòa đã xảy ra giữa các tín hữu Cô-rin-tô đối với các vị rao giảng của họ. Những bất hòa này đã dẫn đến những bè phái. Chống lại những chia rẽ nầy, thánh Phao-lô lên tiếng để chỉ cho họ thấy rằng óc bè phái chia rẻ không xứng hợp với tinh thần Tin Mừng. Đối với những người "lý sự" tự cho mình là "khôn ngoan hiểu biết", thánh Phao-lô nhắc nhở rằng ngài đã không rao giảng cho họ bằng những lời lẽ khôn khéo, nhưng sự điên rồ của thập giá; thánh nhân đề cập đến người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ và người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan. Hai tinh thần rất khác nhau, nhưng hình ảnh thập giá trên đồi Can-vê không thể nào chen chân vào trong những viễn cảnh của họ. Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh nhân đã gặp phải cả hai chướng ngại nầy.
1. Thập giá đối với người Do thái:
Người Do thái mong chờ một Đấng Mê-si-a, Đấng chứng thực tính chính thống sứ mạng của mình bằng những điềm thiêng dấu lạ, Đấng Mê-si-a dũng mạnh và chiến thắng. Vì thế, nhiều người Do thái đã không chịu nổi ý tưởng theo đó Đấng Mê-si-a đã có thể chịu khổ hình nhục nhả của thập giá. Ở An-ti-ô-ki-a, ở Thê-xa-lô-ni-ca và ở những nơi khác, thánh nhân đã bị họ bách hại.
2. Thập giá đối với người Hy-lạp:
Đối với người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, thánh nhân đã chạm trán với họ ở A-thê-na; ngài đã ra sức thuyết phục họ, nhưng vô ích. Họ chờ đợi một hệ thống triết lý trong khi thánh Phao-lô rao giảng cho họ "Một Con Người". Đoạn trích của bức thư nầy tự nó cho thấy rằng việc rao giảng thập giá không thể nào tránh khỏi sự thất bại. Đối với người Hy-lạp, phẩm tính đầu tiên của thần linh chính là vẻ đẹp; dung mạo không còn hình tượng người của Đấng chịu đóng đinh không tương xứng với hình ảnh của vị thần linh.
3. Rao giảng một Đức Ki tô bị đóng đinh:
Nhưng thập giá không là một bài thuyết giáo; Thập Giá cũng không là một sự chứng minh; chính là một sự kiện, một sự kiện khác thường, phía sau sự kiện đó, ẩn dấu sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa, hoàn toàn khác với những viễn cảnh của con người.
Một trong những bài học lớn của bức thư gởi cho Giáo Đoàn Cô-rin-tô nầy đó là "rao giảng mầu nhiệm đau khổ như yếu tố cốt yếu của Tin Mừng". Một cách khái quát, thần học của thánh Phao-lô không tách biệt Tử Nạn ra khỏi Phục Sinh. Đây là một trường hợp ngoại lệ, thánh nhân chủ ý giương cao "hình ảnh duy nhất của Đức Ki tô bị đóng đinh" đối diện với sự tự mãn của con người.
TIN MỪNG Ga 2: 13-25
Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích từ Tin Mừng Gio-an. Hoạt cảnh khác thường. Đức Giê-su phẩn nộ, không nói một lời, "Ngài bèn lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ". Với những kẻ bán bồ câu – của lễ của những người nghèo – Ngài không mở tung các lồng chim của họ, nhưng cho họ một lời giải thích: "Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi chợ búa".
Vì thế, phải chăng Đức Giê-su muốn chấn chỉnh tôn giáo Ít-ra-en và thanh tẩy Đền Thờ mà chẳng bao lâu sau bị phá hủy? Không phải như thế, trái lại, Ngài muốn nói rằng một thời đại mới đang khởi sự; cách hành xử của Ngài cốt yếu mang tính ngôn sứ.
Để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của hoạt cảnh quá đặc biệt nầy, phải định vị nó trước hết vào trong khung cảnh bên ngoài của nó, đoạn vào trong khung cảnh tôn giáo của nó: lễ Vượt Qua, và sau cùng, vào trong văn mạch của Tin Mừng thứ tư.
1. Khung cảnh bên ngoài:
Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng trên một tiền sảnh bát ngát (vua Hê-rô-đê Cả đã tăng gấp đôi tiền sảnh) được những hàng hiên bao quanh. Khi người ta đã băng qua hàng hiên, người ta ở trên tiền đình được gọi "Tiền Đình dân ngoại", vì lương dân nào ước muốn cầu nguyện với Thiên Chúa của dân Do thái đều có quyền đi vào ở đây. Tiếp đó, là nơi thánh, chỉ dành riêng cho người Do thái, được phân chia thành nhiều khu vực khác nhau: khu vực nữ giới, khu vực nam giới, và sau cùng sân của các tư tế.
Chính trong Tiền Đình dân ngoại nầy mà những kẻ bán súc vật dành riêng cho các hy lễ. Công việc buôn bán của họ rất thịnh đạt. Người ta có nhiều lý do để nghĩ rằng các chức sắc tư tế đã kiếm nhiều lợi nhuận ở đây.
Những người đổi bạc cũng ở trên tiền đình nầy, vì người Do thái không thể nào nộp thuế cho Đền Thờ bằng những đồng tiền "ô uế" được đúc hình của hoàng đế Rô-ma hay của vị thần linh ngoại quốc. Những kẻ đổi bạc đổi hiện kim sang "tiền đền thánh" với lệ phí một phần trăm, một lệ phí phải nói là khá cao.
2. Khung cảnh lễ Vượt Qua:
Thánh ký nói với chúng ta "gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái". Chúng ta ghi nhận diễn ngữ nầy, vì nó hàm ý rằng vào thời thánh Gio-an và từ nhiều năm rồi có một lễ Vượt Qua khác: lễ Vượt Qua Ki tô giáo.
Niên biểu của lễ Vượt Qua của người Do thái được chính bản văn cung cấp: "Đền Thờ nầy phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong". Đền Thờ được vua Hê-rô-đê Cả khởi công tái thiết vào năm 19 trước Công Nguyên, vì thế đây là lễ Vượt Qua của năm 28 sau Công Nguyên.
Khung cảnh lễ Vượt Qua nầy đem lại ý nghĩa sâu xa cho hoạt cảnh. Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, vì đây là nơi dành riêng để cầu nguyện, nhưng Ngài cũng còn đuổi những súc vật dành riêng cho các hy lễ, vì chính Ngài sẽ là "con chiên bị sát tế", con chiên Vượt Qua đích thật, hy lễ có giá trị duy nhất từ nay sẽ thay thế tất cả hy lễ vô giá trị khác (chúng ta quen lối đọc đa nghĩa nầy của Tin Mừng Gio-an).
Đức Giê-su đuổi những người đổi bạc vì công việc làm ăn của họ bất lương không xứng hợp với khung cảnh thánh thiêng, nhưng cũng vì những tiền dâng cúng chẳng bao lâu không còn lý do tồn tại nữa: sẽ không còn Đền Thờ, không còn giáo sĩ …
Sau cùng, Đức Giê-su thanh tẩy Tiền Đình lương dân vì lương dân có quyền đòi hỏi tôn trọng những lời cầu nguyện của họ, vì họ không còn phải bị loại trừ ra ngoài: chính họ cũng sẽ được gọi vào ơn cứu độ như dân Ít-ra-en.
3. Văn mạch của Tin Mừng Gio-an:
Thánh Gio-an đặt việc Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua vào lúc bắt đầu sứ vụ của Ngài, sau tiệc cưới Ca-na và sau vài ngày lưu lại ở Ca-phác-na-um. Ba Tin Mừng nhất lãm kể việc Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem vào lúc Ngài sắp bước vào tuần Tử Nạn và xem biến cố nầy như đổ thêm dầu vào lửa khiến giáo quyền Do thái công phẩn đến cực độ. Đây là một trong những lý do ra lệnh truy nả Đức Giê-su.
Tin Mừng thứ tư có một quan điểm khác. Thánh ký muốn dẫn đưa chúng ta tiến bước vào trong mầu nhiệm của Đức Ki tô. Đức Giê-su mà Gio-an Tẩy giả đã giới thiệu "Đây là Con Cjieen Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian" (Ga 1: 29). Ở Giê-ru-sa-lem, Ngài hành xử như "Con Thiên Chúa", Ngài cho thấy trước những mối liên hệ rất đặc biệt với Cha Ngài.
Ở Ca-na, Đức Giê-su đã cho "rượu mới", báo trước rượu sẽ trở thành máu Ngài. Ở Giê-ru-sa-lem, Ngài loan báo "đền thờ mới" sẽ là thân thể của Ngài; Ngài ám chỉ đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: "Các ông cứ phá hủy đền thờ nầy đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại". Sau nầy, những kẻ tố cáo Ngài xuyên tạc lời của Ngài: "Tên này đã nói: tôi có thể phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa…" (Mt 26: 61). Chi tiết nầy có giá trị của nó. Để chỉ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, thánh Gio-an dùng từ Hy lạp "Hieron" có nghĩa "không gian thánh", nhưng để nói về đền thờ sẽ là thân thể của Ngài, thánh ký sử dụng từ "naos" diễn tả chính xác hơn nơi cực thánh của Đền Thờ.
Mặt khác, cái nền của Tin Mừng thứ tư là một phiên tòa ở đó những người xử án Đức Giê-su mà thánh Gio-an gọi "người Do thái" với nét nghĩa xấu (cốt yếu các chức sắc tư tế và các tiến sĩ Luật). Hoạt cảnh Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ cấu thành một phách mạnh của phiên tòa nầy. Những người tham dự vào hoạt cảnh chắc chắn đã nghĩ rằng các ngôn sứ đã công bố: "Thanh tẩy Đền Thờ sẽ đánh dấu khai mạc thời đại Mê-si-a". Phải chăng Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a? Ngài phải cung cấp bằng chứng chứ!
Đoạn, thánh Gio-an ghi nhận rằng có nhiều người đến với Ngài vì các dấu lạ Ngài làm chứ không vì một đức tin vững chắc vào Ngài. Và thánh ký kết thúc: Đức Giê-su "biết có gì trong lòng con người", như vậy, Đức Giê-su cảm thấy trước họ sẽ quay lưng lại với Ngài trong tương lai.
Như vậy, trong Tin Mừng Gio-an, hoạt cảnh nầy có giá trị mặc khải: mặc khải về con người Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, loan báo những đảo lộn mà Ngài sẽ thực hiện cũng như sự thiếu hiểu biết mà Ngài sẽ là đối tượng. Khung cảnh của lễ Vượt Qua sắp đến gần phóng chiếu trên những dữ kiện nầy một sự soi sáng mang tính ngôn sứ.
Lm. Ignatiô Hồ Thông
CƠN THỊNH NỘ THÁNH CỦA CHÚA
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta hầu như ít thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài luôn ôn hòa, dịu hiền, khiêm nhượng và hình như luôn muốn chấp nhận phần thua thiệt. Tuy nhiên, đoạn Tin Mừng của thánh Gioan 2, 13-25 lại cho chúng ta một hình ảnh của Chúa Giêsu nổi cơn thịnh nộ :” Vì nhiệt thành lo việc nhà Chúa mà tôi đây phải bị thiệt thân”. Chúa Giêsu dùng roi đuổi những người bán bồ câu, chiên, bò và lật nhào bàn ghế của những người đổi tiền.
CƠN THỊNH NỘ THÁNH CỦA CHÚA GIÊSU:
Thường thì chúng ta vẫn thấy hình ảnh của Chúa Giêsu “ hiền lành và khiêm nhượng”. Ngài chấp nhận cái hôn giả dối của Giuđa, Ngài bảo Phêrô hãy bỏ gươm vào vỏ, Ngài im lặng trước những lời cáo oan của kẻ thù, Ngài chấp nhận tha thứ cho những người làm hại Ngài, đóng đinh Ngài vào thập giá. Suốt cuộc đời của Chúa Giêsu là một lời xin vâng làm theo thánh ý Thiên Chúa Cha.Hôm nay khi lên đền thánh Giêrusalem đúng với tư cách là Con Thiên Chúa, Ngài nhiệt thành vì Cha của Ngài, do đó, Ngài không thể chịu đựng nổi cái cảnh người ta biến nhà Cha của Ngài thành nơi buôn bán, đổi chác, thành hang trộm cướp. Lòng nhiệt thành của Ngài thiêu đốt Ngài khiến Ngài không thể chịu nổi cảnh ồn ào, náo nhiệt như cái chợ. Dù rằng những việc buôn bán chỉ diễn ra ngoài khu vực tiền đình, nơi dành cho dân ngoại, nơi dành riêng buôn bán dùng vào việc tế tự trong Đền thờ của những người đi hành hương về Đền thờ Giêrusalem nhân dịp lễ Vượt Qua. Chúa Giêsu vẫn không thể chịu đựng nổi sự bất kính của những con người không biết gì về nơi thờ phượng. Ngài gọi đây là nhà của Cha Ngài, nhà cầu nguyện. Ngài nổi cơn thịnh nộ vì Ngài muốn thanh tẩy Đền thờ dù Ngài biết rằng sự nổi giận của Ngài có thể khiến Ngài phải thiệt thân.
CỨ PHÁ HỦY ĐỀN THỜ NÀY ĐI, NỘI BA NGÀY, TÔI SẼ XÂY DỰNG LẠI:
Khi lên Đền thờ Giêrusalem, Chúa vẫn tỏ ra rất kính trọng ngôi Đền thờ này, một ngôi Đền thờ mà Salomon và nhiều người đã vất vả xây dựng để dâng kính Thiên Chúa. Ngài gọi đây là nhà của Cha Ngài ngự và nơi đây là nhà cầu nguyện. Do đó, Ngài trân trọng công trình xây dựng của con người. Tuy nhiên, khi nói đến việc phá hủy Đền thờ này, một ngôi Đền mà Salomon và dân chúng đã phải nỗ lực, tốn biết bao tiền của, biết bao nhiêu công sức để xây dựng trong hơn 40 năm trời, thì phá hủy nó đi và trong ba ngày Chúa lại xây dựng lại quả Ngài ám chỉ đến cái chết và sự sống lại của Ngài. Đền thờ ở đây, chính là thân xác của Chúa Giêsu. Chúa phục sinh sẽ là Đền thờ mới. Nhân loại sẽ thờ phượng Đền thờ là thân thể phục sinh của Chúa cách đích thực. Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Ngài cũng muốn thanh tẩy tâm hồn mỗi người chúng ta.
HÃY TU SỬA ĐỀN THỜ TÂM HỒN:
Chúa ban cho mỗi người một tâm hồn. Chúa muốn mỗi tâm hồn chúng ta phải trở thành một Đền thờ cho Chúa ngự. Bới thế, quay trở về với Chúa, đổi mới tâm hồn, làm mới cuộc đời là những điều cần thiết giúp chúng ta có một tâm hồn trong sạch xứng đáng cho Chúa ngự trị. Mỗi thánh lễ phải là một hy tế để chúng ta dọn dẹp tâm hồn hầu rước Chúa vào lòng chúng ta. Bởi vì như viên sĩ quan chúng ta phải thưa với Chúa :” Lạy Chúa con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con nhưng xin Chúa chỉ phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Mùa chay là cơ hội thuận tiện để Kitô hữu sửa đổi ngôi nhà tâm hồn. Mùa chay cũng là mùa để mọi Kitô hữu đón nhận ân sủng của Chúa. Chúa đã chết để gánh tội trần gian dù rằng Ngài không có một tội nào. Chính vì thế, người môn đệ Chúa đừng bao giờ để tâm hồn mình trở thành chợ búa nghĩa là tâm hồn lỉnh kỉnh tội lỗi và những tính hư nết xấu. Người môn đệ Chúa đừng bao giờ để những đam mê của thế gian lấn át, và đẩy xa Chúa Thánh Thần:” Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây “. Người môn đệ hãy làm cho đền thờ của mình trong sạch và người môn đệ của Chúa cũng phải nhìn ngắm và giúp người khác sửa đổi lại ngôi Đền thờ tâm hồn của họ đã bị xuống cấp, đã bị dột nát.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con biết tôn trọng đền thờ Giáo xứ, Giáo họ, Giáo phận và đặc biệt biết sửa sang Đền thờ tâm hồn của chúng con để Chúa yêu thương ngự trị. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY
Xh 20:1-17; 1 Cr 1:22-25; Ga 2:13-25
Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR
Sống trong thời đại tự do khi mà người ta coi luật lệ như rơm rác và tự quyết định cho mình điều này đúng điều kia sai, chúng ta có thể tự hỏi số phận của 10 điều răn rồi sẽ ra sao đây. Thập giới thật sự có còn chỗ đứng hay là đã hơi cổ hủ lỗi thời? Việc Thiên Chúa trao ban thập giới cho ông Môsê trên núi Sinai đánh dấu ngày khai sinh ra đất nước Israen. Bởi thế đối với dân Do thái, tuân giữ lề luật trong đời sống hằng ngày không nhằm tới việc làm điều đúng, tránh điều sai, nhưng được coi là thể hiện trong cuộc sống mối tương quan với chính Thiên Chúa. Giữ giới luật, đối với họ, chính là đem tình yêu đáp lại khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa, Đấng đã tự mình kết giao với dân Ngài. Họ xem những giới luật như là những điều khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa chia sẻ với họ như một quà tặng - như một lời mời gọi họ cư xử như chính Thiên Chúa chứ không phải là một thước đo lòng tuân phục - vâng lời nơi họ. Xã hội chúng ta tiến bộ và lý luận cao hơn dân Israen thời ông Môsê, nhưng đúng sai phải trái thì ngàn đời vẫn thế. Mười giới răn ngày xưa vẫn còn là cội rễ của đức tin chúng ta ngày nay. Bất cứ quốc gia nào không giữ được điều cơ bản này làm thành mẫu mực cho cuộc sống, thì quốc gia đó khó lòng tồn tại. Chúng ta vẫn còn cần đến thập giới vì chúng ta là gạch, là vữa để kết xây nên nền tảng vững chắc của một xã hội ổn định.
Khi xua đuổi những người buôn bán trong Đền Thờ, Đức Chúa Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy lòng tôn kính của Người đối với nhà của Chúa, và để lại cho chúng ta một tấm gương sáng về cung cách tôn kính những nơi thờ phượng như là những thánh địa dành riêng cho việc cầu nguyện mà thôi. Đền thờ hôm ấy không khác gì một chốn chợ búa náo nhiệt với kẻ mua người bán. Các con buôn có lỗi vì đã dùng nơi cư ngụ của Thiên Chúa làm nơi trục lợi ích kỷ cho mình. Họ không mấy quan tâm đến tinh thần thờ phượng đích thực. Chúng ta thấy Đức Chúa Giêsu đã tái khẳng định mạnh mẽ vì lòng tôn kính Thánh Danh Thiên Chúa và Nhà Chúa vì toàn bộ mọi việc diễn ra nơi đây đã biến thành nghi thức trống rỗng che mờ nhiệm vụ đích thực của đền thờ.
Cộng đoàn Kitô hữu thường tụ họp nhau mỗi Chúa Nhật để cử hành mầu nhiệm Thánh Thể và Tạ Ơn Thiên Chúa vì một tuần lễ đã qua. Mỗi một ngày của Chúa lẽ ra phải là một bước dẫn đưa chúng ta về quê trời, nhưng liệu có thật như thế chăng? Chúng ta có được gần Chúa hơn qua việc tham dự thánh lễ Chúa Nhật hay là việc thờ phượng ngày Chúa Nhật lại trở nên xuống dốc, trở thành một nghi thức trống rỗng, một ước lệ của xã hội hay là một cái gì chúng ta phải làm chỉ vì người ta muốn chúng ta làm? Ngày Chúa Nhật lẽ ra phải làm cho chúng ta tôn vinh Thiên Chúa cao cả, ca ngợi thế giới mà Ngài đã ban tặng cho chúng ta, và chúc mừng mọi người quanh chúng ta. Thiên Chúa mong muốn chúng ta tôn thờ Ngài không chỉ bằng môi miệng hay cử chỉ bên ngoài. Thờ phượng Thiên Chúa có nghĩa là nói: "Chúa cao cả biết bao!", là tiếng đáp trả của chúng ta khi chúng ta nhận ra sự thiện hảo của Thiên Chúa trong cuộc sống chúng ta, nhất là khi chúng ta biết rằng có Chúa là chủ chiên chăn dắt, chúng ta không còn muốn gì, không còn sợ gì? Thờ phượng Thiên Chúa và cuộc sống hằng ngày của chúng ta không hề bị chia cắt nhau. Ngày Chúa Nhật chúng ta được mời gọi đi tới nhà thờ, còn ngày thường trong suốt tuần lễ chúng ta cũng được kêu gọi trở nên ngôi thánh đường ngay trong lòng xã hội chúng ta đang sống.
Thân xác chúng ta
là đỀn thỜ cẦn đưỢc thanh tẨy
Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chúa Giê-su rất mực hiền lành và Người cũng là mẫu mực của sự hiền lành như lời Người mời gọi: “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. (Mt 11, 29)
Khi Chúa Giê-su và các môn đệ bị người dân xứ Sa-ma-ri-a ngăn chặn không cho đi qua làng của họ để tiến về Giê-ru-sa-lem, Giacôbê và Gioan nổi giận đùng đùng, đòi khiến lửa trời thiêu đốt làng mạc của chúng. Thế nhưng Chúa Giê-su liền quở trách Giacôbê và Gioan vì lối xử sự nóng nảy mang tính gây hấn nầy. (Lc 9, 54)
Khi bị người đời phê phán là người mất trí (Mc 3, 21), là kẻ nói phạm thượng (Mt 9, 3), là người lấy phép của tướng quỷ mà trừ quỷ (Mt 9, 34), là người bị quỷ ám (Ga 7,20), là người dại dột … Chúa Giê-su vẫn bình thản như không. Nhất là trong cuộc thương khó, dù bị lăng nhục hành hạ đủ điều, bị chế nhạo đủ cách, Chúa Giê-su vẫn nín lặng và thản nhiên. Khi chịu treo trên thập giá đớn đau tủi nhục lại còn bị chế giễu nhạo cười, Chúa Giê-su chẳng những không nóng giận mà lại còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ hành hạ và đóng đinh Người.
Tóm lại, Chúa Giê-su là Đấng rất dịu hiền và rất bao dung khiến ta nghĩ rằng Người không hề nổi giận bao giờ.
Vậy mà khi vào đền thờ Giê-ru-sa-lem, thấy người ta làm ô uế đền thờ thì Người không thể nào chịu nổi. Người nổi giận thật sự. Tin Mừng Gioan ghi lại: “Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” (Gioan 2, 14-16)
Thật không ngờ! Một Chúa Giê-su rất mực hiền lành khiêm nhượng. Đấng mà ‘cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi’ (Mt 12,20) giờ đây đã nổi trận lôi đình, phải dùng roi vọt và biện pháp cứng rắn đối với những người xúc phạm đến sự linh thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Điều đó chứng tỏ rằng đối với Chúa Giê-su, việc làm ô uế Đền Thờ là một xúc phạm nặng nề mà Người vốn rất nhân từ và bao dung cũng không thể nào chịu đựng nổi!
Thanh tẩy đền thờ thân thể chúng ta
Thế nhưng còn một đền thờ khác còn cao trọng hơn đền thờ Giê-ru-sa-lem xưa. Đó là đền-thờ-thân-xác chúng ta. Thánh Phao-lô khẳng định: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (I Cor 3,16), hoặc: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? (I Cor 6, 19)
Chúa Giê-su cũng dạy rằng thân xác chúng ta là đền thờ cho Ba Ngôi ngự trị: “Ai yêu mến Thầy và tuân giữ lời Thầy, thì Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng ta (tức Ba Ngôi Thiên Chúa) sẽ đến ngự trong người ấy”. (Ga 14, 23)
Chính vì yêu quý đền-thờ-thân-xác chúng ta quá đỗi nên Chúa Giê-su sẵn sàng chuộc lại bằng giá máu của Người, đã thánh hoá nó bằng lời hằng sống và hiến ban Thịt Máu Người trong bí tích thánh thể để bồi bổ nó nên vạn lần cao đẹp.
Điều đó chứng tỏ rằng đối với Thiên Chúa thì thân xác con người là đền thờ vô giá!
Vì thế, nếu hôm xưa người Do-thái làm ô uế đền thờ Giê-ru-sa-lem khiến Chúa Giê-su đau lòng một phần, thì hôm nay, nếu có ai làm cho đền thờ cao quý là thân xác các môn đệ Người ra nhơ uế thì Người đau xót gấp trăm. Thế nên, Người nghiêm khắc lên án những người nầy: “Ai làm cho một kẻ nhỏ tin vào Thầy vấp phạm, (tức là làm hư hại đền-thờ-thân-xác người khác), thì thà lấy cối đá cột vào cổ người ấy rồi xô xuống biển còn hơn.”
Thánh Phao-lô cũng quả quyết: “Ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy.Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em.” (Icor 3, 13-17)
Hãy sớm thanh tẩy đền thờ thân xác mình
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn thật sâu vào nội tâm kín ẩn của mình để truy tìm những điều làm cho chúng ta ra nhơ uế và quyết tâm thanh tẩy tâm hồn, vì “từ trong lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế” (Mt 15, 19-20)
Ngoài ra, chúng ta phải tôn trọng thân xác chúng ta là đền thờ Thiên Chúa, được Chúa Giê-su cứu chuộc, được Chúa Thánh Thần xức dầu thánh hiến, được Ba Ngôi Thiên Chúa vui thích chọn làm nơi ngự trị. Phải trang điểm đền thờ thân xác chúng ta bằng những đức tính tốt; phải nâng cấp bản thân bằng rèn luyện cho mình những phẩm chất cao đẹp cho xứng với danh hiệu đền thờ cao quý của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lm. Ignatiô Trần Ngà
THANH TẨY ĐỀN THỜ TÂM HỒN
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Kính thưa quý ông bà và anh chị em.
Đền thờ Giêrusalem là trung tâm đời sống tôn giáo của dân tộc Do Thái. Nó được coi như con ngươi của đạo Giavê Thiên Chúa. Tuy nhiên theo thời gian, Đền Thờ ấy đã bị tục hoá, bị giải thiêng nhiều mặt. Việc Chúa Giêsu thanh tẩy Đền Thờ là để trả lại ý nghĩa đích thực của nó; đồng thời Ngài muốn mạc khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân thể Ngài. Vậy đâu là ý nghĩa của đền thờ Giêrusalem và đâu là ý nghĩa đền thờ thân thể mà Chúa Giêsu muốn mạc khải ?
Đọc lại lịch sử dân thánh, ta thấy Đền Thờ Giêrusalem mang những nghĩa quan trọng sau đây:
- Trước hết, Đền thờ Giêrusalem là địa chỉ của sự gặp gỡ nối kết. Từ xa xưa, người Do thái vẫn xem đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Nói cách khác, Đền Thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện và gặp gỡ con người; đồng thời cũng là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ nhau. Gặp gỡ để phượng thờ, cảm tạ, chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa, đặc biệt là vào các ngày Sabát và các ngày đại lễ.
Thế nhưng, một số người đã biến nó thành nơi nhếch nhác của những kẻ tụ tập buôn bán và đổi chác. Chúa Giêsu xua đuổi những kẻ lạm dụng này ra khỏi Đền Thờ là để trả lại chổ đứng của nó, vốn là “Nhà cầu nguyện”.
- Thứ đến, Đền thờ Giêrusalem là dấu chứng của tình yêu thương hiệp nhất. Quả thế, Đền Thờ Giêrusalem là nơi biểu lộ rõ nét nhất tình yêu của Giavê Thiên Chúa đối với dân Người và đồng thời cũng là nơi hiệp nhất muôn dân nước: “Từ muôn phương ta về đây sánh vai lên đường, đường đưa ta đi lên Đền Chúa ta…”.
Thế mà các giới chức Dothái đã biến thành nơi cạnh tranh, kèn cựa, xô bồ và phận biệt đối xử (phụ nữ, dân ngoại, kẻ tội lỗi….). Chúa Giêsu đã lật nhào, xô đổ tất cả nhằm thanh tẩy Đền thờ khỏi những điều bất xứng, cách riêng là khu vực dân ngoại. Từ nay, mọi người không phân biệt sắc tộc, tôn giáo … đều được tôn trọng và đón nhận. Đối với Chúa Giêsu, Đền Thờ phải là nơi dành cho hết mọi người.
- Sau nữa, Đền thờ Giêrusalem còn là biểu tượng của sự thánh thiêng. Khi nói đến sự thánh thiêng, người Do thái thường nói đến Đền Thờ. Vì đối với họ, không có nơi nào khác ngoài Đền Thờ, con người có thể tìm được tất cả những gì là thiêng thánh và siêu việt của cõi thiên giới. Bởi đó chúng ta không ngạc nhiên gì khi thấy người Do Thái khi phải thề thốt một điều gì quan trọng, họ thường lấy Đền Thờ Giêrusalem mà thề.
Tuy nhiên, Đền Thờ ấy đã bị làm cho ô uế bằng đủ mọi thứ dối gian, trở thành nơi trục lợi, chổ mua danh, chốn lạm quyền, v.v... Trước thực trạng đó, Chúa Giêsu đã xua đuổi tất cả những kẻ làm cho Đền Thờ bị ô nhơ, nhằm trả lại sự thánh thiêng cho Đền Thờ. Đồng thời qua hành động và lời nói của mạnh mẽ của mình, Chúa Giêsu muốn mạc khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân thể của Ngài.
Đức Kitô chính là Đền thờ sống động, nơi Ngài chúng ta tìm được 3 ý nghĩa trên một cách tròn đầy nhất.
- Trong Đức Kitô, chúng ta được gặp gỡ Thiên Chúa là Cha và được nối kết với mọi người là anh em. Trong Đức Kitô, chúng ta có thể thưa lên “Aba”- lạy Cha, và đối xử với nhau như anh chị em con cùng một Cha trên trời.
- Trong Đức Kitô, chúng ta nhận được tình yêu tràn đầy mà Thiên Chúa dành cho nhân loại và hiệp nhất nên một với nhau, như lời Vinh Tụng Ca mà chúng ta thường nghe đọc: “Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi chúc tụng và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời”.
- Trong Đức Kitô, chúng ta cũng tìm lại được sự thánh thiện nguyên thuỷ dư đầy của mình vốn là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Ađam và Evà đã đánh mất khi phạm tội.
Thưa quý ông bà anh chị em.
Chúng ta hãy nhớ rằng trong Đức Kitô, chính chúng ta cũng đã trở nên đền thờ sống động đã được thánh hiến ngày chúng ta lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô đã minh định điều này với giáo đoàn Côrintô: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta qua Con Một yêu dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ thế nào đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.
Thế thì hằng ngày chúng ta đã thực sự sống xứng đáng là đền thờ Thiên Chúa ngự chưa ? Hay chúng ta đang làm cho đền thờ tâm hồn mình ra nhơ uế bởi những tính toan ích kỷ, bởi lòng ghen tị, óc thành kiến hẹp hòi và bao nhiêu thói hư tật xấu khác ?
Xin Chúa Giêsu hằng yêu thương thanh tẩy đền thờ tâm hồn của chúng ta mỗi ngày, đặc biệt trong Mùa Chay thánh này. Xin Ngài tiếp tục xua đuổi, lật nhào khỏi lòng trí chúng ta những gì làm cho tâm hồn ra ô nhơ và trả lại cho Chúa Thánh Thần một nơi xứng hợp để Ngài ngự vào. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Thánh ÐưỜng MỚi
Ga 2,18-25
Lm. An Phong, OP
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật biến cố Ðức Giêsu vào đền thờ Giêrusalem, đánh đuổi những người bán chiên bò ra khỏi đền thờ, hất tung tiền của người đổi bạc; đồng thời, Người tuyên bố Thân Thể Người chính là Ðền Thờ đích thực. Origène đã giải thích ý nghĩa hành vi này là : Ðức Giêsu thanh tẩy đền thờ và đổi mới cách thờ phượng Thiên Chúa; phượng tự Do Thái không còn thích hợp nữa, cần phải được thay thế bằng phượng tự Kitô giáo, đó là tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý.
+ Ðối với người Do Thái, việc thờ phượng Thiên Chúa được tập trung nơi đền thờ. Nhưng việc tôn thờ Thiên Chúa không thể bị giới hạn trong nơi này hay nơi khác; vì chính Ðức Giêsu, và cộng đoàn hợp nhất với Ngài, mới là đền thờ đích thực.
Ngày nay, nhà thờ công giáo dường như có mặt khắp nơi và có đủ mọi kiểu dáng : giữa nơi đô hội hay nơi thôn xóm; khiêm tốn, đơn giản hoặc tráng lệ nguy nga...; nhưng sự khác biệt đó không quan trọng cho bằng : đền thờ có thực sự là nơi cộng đoàn kết hiệp với Ðức Kitô, để tôn thờ Thiên Chúa hay không. Ở tây phương, đã có nhiều thánh đường trở thành di tích lịch sử hay nơi tham quan du lịch rồi. Ở Việt Nam, có phải nhiều người vẫn quá để ý dáng vẻ đền thờ vật chất do con người làm ra hơn là nhận ra Ðức Giêsu hiện diện cùng với cộng đoàn phụng vụ của Hội thánh?
Ðền thờ đích thực là nơi cộng đoàn ca hát, đối đáp, cầu nguyện và thờ phượng Thiên Chúa; nơi Ðức Giêsu đang hiện diện thực sự để cùng đồng hành với cuộc sống dân Kitô giáo.
+ Hơn nữa, một giờ hay 30 phút đi lễ..., chỉ là một khoảng thời gian ngắn ngủi biểu lộ chính ơn gọi làm "Dân Tư Tế của Thiên Chúa". Bởi lẽ, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, người kitô hữu được xức dầu để làm một dân "chuyên lo việc phụng thờ Thiên Chúa"; và việc tôn thờ Thiên Chúa là cuộc sống mỗi ngày, suốt cả đời, trong toàn thể cuộc sống.
Do đó, đời sống đạo của người kitô hữu gắn liền với phượng tự: thánh lễ thường xuyên trong nhà thờ Công giáo, bổn phận tham dự thánh lễ trong ngày Chúa nhật và lễ buộc...; do đó, cuộc đời người kitô hữu là một thánh lễ miên trường, trong tâm tình tạ ơn, ngợi ca và thống hối; do đó, những lo loan tính toán mỗi ngày, những đau khổ, những thất vọng của kiếp người phải được biến nên của lễ trên bàn thờ, hiệp với lễ dâng của chính Ðức Giêsu, mà dâng lên Thiên Chúa Cha.
Con mang vác nặng quá rồi, Chúa ơi !
Con chịu đựng không nỗi nữa !
Con đường con đi, chưa dài lắm,
Nhưng quá khứ đã đủ chất chồng;
Con đã sống bao biến cố tang thương
Và nhiều lúc con xây xẩm mặt mày.
Con mang vác nặng quá rồi, Chúa ơi !
Con chịu đựng không nỗi nữa !
Nhưng hôm nay... lạy Chúa !
Có phải con mơ không ?
Con tin mình đã tìm thấy
Ðiều mà từ lâu Chúa chờ đợi nơi con.
Con tình cờ đọc được câu Thánh vịnh
được in nơi tấm hình :
"Hãy vứt bỏ những lo lắng trong Chúa
và chính ngài sẽ nâng đỡ con luôn."
Và con tin rằng
Qua lời kinh đó,
Chúa đang thực sự nói với con. Michel Quoist
Giao ƯỚc MỚi
Ga 2, 13 – 25
Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP
Lời hứa có một ảnh hưởng nào trong cuộc sống ? Hôn ước cũng chỉ là một lời hứa vắn tắt, nhưng ràng buộc con người suốt đời.Thiên Chúa cũng bị lời hứa ràng buộc. Giao ước chính là lời Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Nhưng rõ ràng có một sự khác biệt lớn lao giữa Thiên Chúa và con người trong việc giữ lời hứa. Chính nhờ lời hứa, giá trị được xác định. Vì chữ tín càng cao, con người càng được mọi người kính nể. Chúng ta thử xem Thiên Chúa đã giữ lời hứa như thế nào trong khi thiết lập tương giao với nhân loại.
TƯƠNG QUAN HAI CHIỀU
Thiên Chúa đã chứng tỏ tất cả uy quyền khi thiết lập giao ước với loài người. Chính vì yêu thương, Chúa đã hạ cố đến với Môsê. Người đã dẫn ông qua những nẻo đường, đến tận núi Sinai để thiết lập giao ước với dân tộc Do thái. Mười Ðiều Răn chính là cách diễn tả cụ thể giao ước đó (Faley 1994:244). "Mười Ðiều răn thể hiện quyền bình Thiên Chúa trên chúng ta" (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:13). Quyền bính ấy không nhằm đè bẹp, nhưng thăng tiến con người. Con người chỉ thực sự thăng tiến khi biết rõ mình là ai trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Bởi vậy " trước khi ban Mười Ðiều Răn cho Israel, Thiên Chúa mạc khải Người là ai. Israel khám phá mình là ai khi đáp trả lại lời Thiên Chúa mời gọi bước vào tương quan giao ước, nhờ vậy có một căn tính mới" (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:13). Quả thực chính nhờ giao ước, Do thái thực sự được Chúa yêu thương và trở thành người con đầu lòng của Thiên Chúa. Họ rất hãnh diện vì như chiếm được lòng ưu ái của Thiên Chúa, trong khi dân ngoại bơ vơ giữa đủ thứ thần tượng. Nhờ thực thi giao ước, họ sẽ chiếm được niềm hi vọng thiên sai.
Chính vì thế, Ðức Giêsu đã sinh ra trong dân tộc Do thái. Người đến để thực hiện tất cả những gì Thiên Chúa đã hứa qua giao ước. Thiên Chúa phải được tôn thờ là vị Thần độc nhất. Ðối với Do thái, nhận thêm một vị thần vào bảng phong thần không khó lắm. Nhưng tôn thờ Người là vị thần độc nhất, loại trừ tất cả các thần khác là cả một vấn đề. "Giới răn thứ nhất (cc.3-6) là một cách diễn tả niềm tin độc thần trong thực tế" (Faley 1994:245). Ðền thánh là lãnh vực tuyệt đối dành cho một mình Giavê mà thôi. Nếu ai đem thần ngoại bang vào đền thờ, tức là chối bỏ Giavê. Xúc phạm tới đền thánh tức là xúc phạm tới Thiên Chúa. Ðền thờ trở nên trung tâm sinh hoạt tôn giáo và chính trị của toàn dân. Ðó là biểu tượng của niềm tin và hi vọng. Dân tộc trở thành một cộng đồng qui tụ quanh đền thờ. Cộng đồng đó cần được Thiên Chúa hướng dẫn về Ðất hứa.
"Mười Ðiều Răn đã được Thiên Chúa phác họa để dẫn dân Do thái tới một cuộc sống thánh thiện trong thực tế. Trong Mười Ðiều Răn đó, họ sẽ nhìn thấy bản tính Thiên Chúa và kế hoạch Người chỉ vẽ cho dân lối sống. Mệnh lệnh và những chỉ dẫn nhằm hướng dẫn cộng đoàn gặp gỡ từng nhu cầu cá nhân một cách đầy thương yêu và có trách nhiệm" (Life Application Study Bible 1991:136). Thực hành Mười Ðiều Răn là cách duy nhất để cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa đối với dân Người.
Biểu tượng của tình yêu và niềm hi vọng chính là đền thờ. Bởi vậy mỗi khi nhìn đến hay hướng về đền thờ, dân Chúa vô cùng phấn khởi và hăng say giữ tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi qua giao ước. Họ không cảm thấy gò bó hay miễn cưỡng khi giữ luật vì đó là "phương tiện duy nhất chu toàn luật thương yêu của Thiên Chúa" (Life Application Study Bible 1991:136). Ngày sabát là một bằng chứng. Chính vì biến phương tiện thành mục đích, người Do thái đã đánh mất nét tinh hoa cao quí nhất của lề luật. Nói khác, khi không còn là phương tiện đạt mục đích Thiên Chúa đã vạch ra, luật lệ hay đền thờ trở thành những thứ thừa thãi, vô bổ.
Chính vì thế Ðức Giêsu mới không ngần ngại nổi nóng với những lạm dụng đền thờ, cản trở việc thờ phượng. Làm sao có thể tưởng tượng nổi một Ðấng "hiền hậu và khiêm nhường" (Mt 11:29) lại có thể "lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Ðền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế ho." (Ga 2:15). Giữa chốn ồn ào hỗn loạn đó, chắc chắn Người đã phải quát lên : "Ðem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán" (Ga 2:16). Công cuộc thanh tẩy Ðền Thờ làm Người hầu như quên bản chất hiền lành của mình. Người sẵn sàng vượt lên trên mức thường tình để thanh tẩy Ðền Thờ. Người còn muốn cho mọi người thấy mạc khải lớn lao về bản chất đích thực. Người chính là Ðền Thờ mới thay thế Ðền Thờ cũ vào thời Thiên sai (Ml 3:1-4; Dcr 14:21). Bởi thế, "hành động của Ðức Giêsu mang tính cánh chung, thúc đẩy người Do thái thắc mắc về tư cách Thiên sai của Người" (Ga 2:18) (Faley 1994:248).
Thắc mắc đó phải đợi sau cái chết và phục sinh của Người được trả lời thỏa đáng. "Ðền Thờ ấy sẽ được một thực tại mới thay thế là Ðức Kitô tràn đầy Thần khí" (Faley 1994:248). Chính nơi Người, Thiên Chúa sẽ hiện diện cách sung mãn và sống động nhất. Người sẽ trở nên trung tâm thu hút mọi người về với Thiên Chúa. Quả thế, sau khi phục sinh, Ðức Giêsu là nơi nhân loại tìm được dung nhan Thiên Chúa và sự tôn thờ đích thực trong "thần khí và sự thật" (4:23-24). Trước đó, Người đã làm nhiều dấu chỉ chứng tỏ nơi Người, sự thật mới đạt đến độ sâu sa nhất. Vì nhờ thiên tính, Người đã đi sâu vào tận bản tính nhân loại (c.25; 1:47).
ÐỀN THỜ HÔM NAY
Ðức Giêsu cũng muốn thanh tẩy Ðền Thờ hôm nay là Giáo hội. Nếu Giáo hội không được thanh tẩy, những hoạt động trần tục sẽ che khuất dung nhan Thiên Chúa trước mắt mọi người. Nói khác, chính vì Giáo hội quá nặng nề với lỗi lầm quá khứ, những nghi lễ và luật lệ rườm rà, nhiều người đã không thể đến được với Chúa Kitô. Bởi đấy, ngày 12.3.2000, ÐGH Gioan Phaolô II đã làm một cử chỉ ngoạn mục trước mắt toàn thể nhân loại. Giáo hội đã tự thanh tẩy. Ðúng hơn, Thánh Linh đã thanh tẩy khuôn mặt Giáo hội, không phải để Giáo hội được nổi tiếng, nhưng để mọi người nhận biết Ðức Kitô là "sự thật và là sự sống" (Ga 14:6), có sức giải thoát nhân loại khỏi mọi cảnh khốn cùng hiện tại.
Trong khi rao giảng Ðức Kitô, Giáo hội nhìn nhận lịch sử Giáo hội là một chuỗi "các tội đã phạm trong khi phục vụ chân lý, các tội đã làm tổn thương đến sự hiệp nhất Kitô giáo, các tội chống lại dân tộc Israel, các tội chống lại tình yêu, hòa bình và kính trọng đối với các nền văn hóa và các tôn giáo, các tội chống lại phẩm giá của người phụ nữ và sự hiệp nhất của loài người, và các tội phạm đến các quyền cơ bản của con người" (VietCatholic 19/3/2000). Không phải vì những lầm lỗi ấy mà Giáo hội phải bị phá hủy, vì bản chất Giáo hội vẫn là thánh. Hi vọng sau lời thú tội này, Giáo hội sẽ phục vụ Thiên Chúa và con người đắc lực hơn. Mọi người có thể dễ dàng đến với Ðức Kitô qua cung cách khiêm nhường của Giáo hội. Nhân loại như bước vào "thời gian hòa giải, thời gian cứu độ cho tất cả mọi người tín hữu và cho tất cả mọi người đang tìm kiếm Thiên Chúa !" (ÐGH Gioan Phaolô II, "Ngày Xin Ơn Tha Thứ", VietCatholic, 19/3/2000). Ðức Giáo Hoàng đã tô một nét son thật đậm vào lịch sử Giáo hội. Các Giáo hội địa phương cũng theo gương sáng đó. Chẳng hạn tại Giáo hội Hoa Kỳ, các Ðức Hồng y Roger Mahony, TGM Los Angeles, đã xin lỗi cả những người đống tính luyến ái và những tín đồ thuộc các tôn giáo khác. Người cũng xin lỗi cả những gia đình hay cá nhân về những lạm dụng tình dục của một số linh mục. Ðức Hồng y Bernard Law tại Boston cũng xin lỗi về nạn nô lệ tại Hoa Kỳ. Các Giám mục Âu châu cũng đã thú nhận người Kitô hữu đã không cố sức để cứu người Do thái trong thời Ðệ nhị thế chiến (VietCatholic 19/3/2000).
Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP
Vì NhiỆt Tâm VỚi ViỆc Nhà Chúa
Ga 2,18-25
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
Không được buôn bán ở đây
Trong cuộc đời công khai của Ðức Giêsu, câu chuyện Người xua đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Ðền Thờ là một trong những chuyện được biết đến nhiều nhất. Cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại câu chuyện này. Nhiều nhà điêu khắc và hoạ sĩ cũng trình bày biến cố này theo nhiều phong cách khác nhau.
Từ trước đến nay, và mãi về sau vẫn thế, Ðức Giêsu vốn được nhìn nhận là nhà giảng thuyết về tình yêu. Trong câu chuyện này, Người bước vào khuôn viên Ðền Thờ, tay cầm roi, mặt bừng bừng giận dữ. Người xua đuổi những kẻ bán bồ câu, bò và chiên ; Người đổ tung tiền của những người đổi bạc, và lật nhào bàn ghế của họ. "Ðừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán."
Cách đây không lâu, bên bờ hồ, cũng chính Người đã công bố các mối phúc thật, trong đó có mối phúc : Phúc thay những ai hiền hoà ...
Ðức Giêsu là một người bạo động hay bất bạo động ?
Tại sao Ðức Giêsu lại nổi giận như thế ? Thánh Gioan trích lại một câu Thánh vịnh như là chìa khoá : Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa ... Như thế, ở đây là một cảnh nói về sự ghen tương của Thiên Chúa. Kinh Thánh vẫn thường mô tả về một Thiên Chúa hay ghen, Người không chấp nhận sự chia sẻ. Cơn giận của Ðức Giêsu diễn tả mối ghen tương này : Người không cầm mình được khi nhìn thấy người ta xúc phạm, làm ô uế ngôi nhà nơi Thiên Chúa gặp gỡ dân Người.
Hãy thử tìm hiểu ý nghĩa của câu chuyện, vì trong đó bao hàm nhiều ý nghĩa trái ngược nhau.
Trước hết, Ðức Giêsu không xử với những người buôn bán như là những người buôn bán. Người không tố cáo họ làm ăn bất chính, nhưng Người tố cáo họ, vì họ không tôn trọng nơi được gọi là nhà của Thiên Chúa.
Cũng cần phải hiểu về ý nghĩa của Ðền Thờ lúc bấy giờ. Ðây không phải là một đền thờ trong số muôn ngàn đền thờ. Ðây là Ðền Thờ duy nhất, nơi dành riêng để thờ phượng Thiên Chúa, một nơi mà mỗi năm, người Do-thái phải hành hương để dâng của lễ và nộp thuế.
Ðền thờ Giêrusalem thực sự là trung tâm mọi sinh hoạt của người Do-thái. Chỉ vì một lý do duy nhất là dân Do-thái phải tản mác khắp nơi nên các hội đường mới được xây dựng càng lúc càng nhiều để họ có nơi thờ tự.
Chính vì vậy người ta thấy được ý nghĩa sâu xa của trình thuật này, ý nghĩa vượt lên trên cả không gian lẫn thời gian. Khi nói về Ðền Thờ, Ðức Giêsu gọi là "nhà Cha tôi", và như thế Người là Con. Người còn cho biết, nếu người ta phá huỷ Ðền Thờ này đi, thì trong ba ngày Người sẽ xây dựng lại.
Nhưng đền thờ đó là đền thờ nào ? Chắc chắn Ðức Giêsu không có ý nói về đền thờ Giêrusalem : đền thờ này sẽ bị phá huỷ hoàn toàn ít năm sau đó, nhưng Người muốn nói về chính thân xác Người.
Sau này các môn đệ sẽ hiểu rằng đây là lời báo trước về Phục Sinh. Cuộc phục sinh của Ðức Kitô sẽ chứng tỏ rằng Người có quyền để cải tổ việc thờ phượng, đổng thời cũng cho thấy mối nhiệt tâm của Người dành cho nơi Thiên Chúa ngự.
Có lẽ chỉ ngay sau khi Ðức Giêsu ra khỏi Ðền Thờ, những người buôn bán sẽ tiếp tục hoạt động của mình. Tuy nhiên câu chuyện là một lời tiên tri về các hoạt động của Ðức Giêsu. Dưới ánh sáng phục sinh, Người sẽ bày tỏ dung mạo Tin Mừng của việc thờ phượng Người đã thiết lập : từ nay con người của Ðấng Phục Sinh sẽ là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Ðó là sức mạnh tiềm ẩn trong những hành vi mà bên ngoài xem như là không có hiệu quả. Những hành vi này khơi dậy và làm vang lên lời mời gọi của Thiên Chúa, chúng mời gọi con người hướng tới tự do, tới những điều mới mẻ, tới điều không thể được.
Con người là Ðền Thờ
Thay vì minh chứng những cơn giận thánh của Thiên Chúa và con người, thay vì những nhận định với mục đích trấn an về tâm lý nhân loại của Ðức Giêsu, có lẽ việc suy niệm về ý nghĩa của Ðền Thờ phải là trọng tâm của phần lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay.
Ðền Thờ - nhà tù
Nếu người ta coi Ðền Thờ là nơi duy nhất để tế tự, thì chuyện những người buôn bán có mặt ở đây là điều bình thường. Họ cung cấp các loại thú vật, đèn nến dành cho việc tế tự như luật định. Họ phục vụ cho những người đến Ðền Thờ để chu toàn bổn phận của mình.
Thế nhưng, vấn đề đặt ra ở đây lại khác : Thiên Chúa ở đâu ? Ai đã đặt Người ở bên ngoài cuộc sống, trong vòng rào của những nơi thờ tự, ai đã giam hãm Người trong vai trò một người chỉ để đón nhận các nghi thức ? Thưa chính con người.
Ai đã vạch ranh giới giữa hai vùng đất, đất thánh (Ðền Thờ) và đất phàm ? Ai đã chia cắt Thiên Chúa ra khỏi dân Người, là nơi mà trước đây, Người vẫn dạo chơi - theo cách nói của vua Ða-vít - ? Cũng chính là con người.
Những người buôn bán trong Ðền Thờ là hình ảnh minh hoạ mối tương quan đã bị hiểu sai lạc giữa con người và Thiên Chúa, được coi như một thứ thuế giữa miền đất của con người và vương quốc của Thiên Chúa. Chính vì vậy Ðức Giêsu đã cầm roi để xua đuổi họ. Người muốn trả lại cho Ðền Thờ ý nghĩa nguyên thuỷ và cao cả.
Con người - Ðền Thờ
Cũng thật là sai lạc khi muốn giải trừ Thiên Chúa vào kinh nghiệm thiêng liêng của đời sống cá nhân. Ðặt Thiên Chúa quá ở bên ngoài hay quá ở bên trong cũng là một thứ áp dụng quyền bính trên Thiên Chúa. Ðây chính là cám dôỵ lớn nhất kể từ thời Sáng thế cho đến khi Ðức Giêsu chịu cám dôỵ trong sa mạc.
Việc Ðức Kitô nhập thể là một dấu chỉ tuyệt vời về Ðền Thờ của Thiên Chúa. Ðền thờ ấy là một con người với cả thể xác lẫn tinh thần. Một hiện hữu toàn diện trở thành nơi gặp gỡ với Thiên Chúa.
Ðức Giêsu Kitô, Thiên Chúa trở thành xác phàm, trao ban chính thân thể Người làm của ăn, và máu Người làm của uống, tức là Người trao tặng sự sống của Người để trở thành sự sống của nhân loại. Trong Ðức Giêsu, Thiên Chúa tìm lại được vị trí đích thực của Người.
Mỗi người là một đền thờ
Từ những suy nghĩ trên, chúng ta còn phải đi xa hơn. Ðức Kitô vẫn đang sống trong Thánh Thể. Và thân thể này, cũng chính là Hội Thánh. Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Cô-rin-tô : "Anh em là thân thể Ðức Kitô" (1 Cr 12,27), "Anh em là Ðền Thờ của Thiên Chúa" (1 Cr 3,16).
Như vậy, trong thực tế, Ðền Thờ của Thiên Chúa là mỗi người chúng ta. Mỗi người cần phải xua đuổi, phải khử trừ tất cả những gì làm cho đền thờ này ra ô uế, không còn xứng đáng với danh hiệu nhà của Thiên Chúa. Những người buôn bán trong Ðền Thờ sẽ không còn là những người trao đổi hàng hoá trong khuôn viên Ðền Thờ để mưu sinh, nhưng là chính chúng ta, mỗi người chúng ta, từ nơi sâu nhất của chính mình, ngổn ngang vì những mối bận tâm đầy ích kỷ, gian dối và giả trá.
Như thế, đền thờ cần phải được thanh tẩy chính là tâm hồn chúng ta, ngõ hầu đền thờ ấy xứng đáng với sự hiện diện của Thiên Chúa chứ không phải là hang trộm cướp. Tâm hổn chúng ta phải được thanh tẩy khỏi mọi thứ chướng khí và mọi thứ lừa đảo, bởi vì đó phải là nơi gặp gỡ với Thiên Chúa, phải là đền thờ không gì đáng chê trách, phải là nhà để cầu nguyện.
Theo lời thánh Phê-rô, Ðền thờ của Ðức Giêsu được xây dựng bởi những "viên đá sống động". "Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, ở giữa họ" (Mt 18,20). Ðó chính là thân thể Ðức Kitô đang lớn lên giữa lòng nhân loại. Ðó chính là một đền thờ với những khuôn mặt, những bàn tay, những trái tim, mà chất xi-măng để gắn lại là sự gặp gỡ, chia sẻ, cùng đón nhận Tin Mừng và cùng tạ ơn ...
Hội Thánh được xây nên nhờ những con người, trước khi là một ngôi nhà bằng đá. Khi nghĩ đến câu nói của Ðức Giêsu về ngày sa-bát, người ta có thể thêm : "Các nhà thờ được xây dựng nên vì con người, chứ không phải con người vì các nhà thờ." Ðền thờ của Thiên Chúa vẫn sống động khi cộng đoàn Kitô hữu sống động. Ðền thờ của Thiên Chúa vẫn đang sống khi mỗi con người để cho chất men Tin Mừng hoạt động trong đời của mình.
Thiên Chúa ngự trong Ðền Thờ nhưng không bị giam hãm trong đó. Chính Người đã dẫn dân Ít-ra-en về Ðất Hứa, nhưng Người cũng yêu thích ngọn gió lay động các căn lều, Người cũng yêu thích những cuộc lên đường vào buổi sớm mai. Ðức Giêsu đã rảo khắp các nẻo đường, từ thôn quê tới thành thị, và Người tuyên bố Người là Ðường. Từ nay, Ðền Thờ có mặt khắp nơi, rất tế vi và không thể nắm bắt được - giống như ánh sáng. Và điều bí nhiệm để Người xây dựng nên Ðền Thờ ấy, chính là sự Phục Sinh.
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
Thanh tẨy đỀn thỜ
Ga 2,13-25
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Đền thờ Giêrusalem đầu tiên được vua Salômôn xây dựng rất đồ sộ, vĩ đại và cũng rất nguy nga, tráng lệ, đây là một công trình quý giá vào bậc nhất thời bấy giờ, phải huy động mỗi ngày cả trăm ngàn công nhân và bảy năm mới hoàn thành, đền thờ này đứng vững được 400 năm thì bị Na-bu-cô, vua nước Babylon, phá hủy vào năm 587 trước Công Nguyên. Sau thời gian lưu đầy Ba-by-lon, Giô-rô-ba-ben kiến thiết lại đền thờ, nhưng thô sơ thôi. Đến thời Hê-rô-đê đại vương, ông cho trùng tu lại toàn bộ đền thờ, rất vĩ đại và nguy nga lộng lẫy, mỗi ngày có 18.000 thợ làm việc, không thể ước tính được số kinh phí, khởi công từ năm 20 trước Công Nguyên mãi đến năm 63 sau Công Nguyên mới xong, đền thờ này cũng bị tàn phá bình địa vào năm 70 do tướng Ti-tô của Rôma tấn công.
Đền thờ rất vĩ đại, chia ra từng khu cho từng loại người : ngoài cùng là khu dành cho người ngoại giáo đến tham quan đền thờ, rồi đến khu dành cho phụ nữ, rồi đến khu dành cho nam giới, khu thiêu sinh các của lễ, khu dành cho tư tế, rồi đến bàn thờ dâng hương, trong cùng là nơi cực thánh, đặt hòm bia 10 điều răn, tượng trưng sự hiện diện của Thiên Chúa ở đây.
Đối với người Do Thái, đền thờ là trung tâm tôn giáo của dân tộc, vừa cụ thể hóa sự hiện diện uy nghiêm của Thiên Chúa vừa chính thức hóa việc phụng tự của cả dân tộc, bởi đó, đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà cầu nguyện cho muôn dân, và không ngừng mang tính chất linh thiêng thánh thiện. Nhưng dần dà người ta đã ngang nhiên biến một phần của nơi thánh thiện ấy thành nơi buôn bán và trao đổi tiền bạc, dĩ nhiên với lý do tốt đẹp bên ngoài là để phục vụ việc tế tự. Quang cảnh ấy đã làm Chúa Giêsu khó chịu, nổi giận, Ngài yêu cầu mọi người trả lại cho đền thờ sự thánh thiêng phải có.
Bài Tin Mừng kể lại việc Chúa Giêsu xua đuổi những người buôn bán và trao đổi tiền bạc ở đền thờ Giêrusalem, hành động này của Chúa được gọi là hành động thanh tẩy đền thờ, nhưng làm cho giới lãnh đạo Do Thái giáo khó chịu và hạch hỏi Chúa, nhân cơ hội này Chúa dạy bảo cho họ biết một điều rất quan trọng về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Từ khi lên 12 tuổi và suốt thời gian sống ẩn dật, hàng năm Chúa Giêsu đều lên đền thờ Giêrusalem dự lễ, tại sao Ngài không đuổi những người buôn bán trong đền thờ mà lại làm bây giờ, khi sắp kết thúc cuộc đời trần gian của Ngài ? Vì bây giờ Ngài vào nhà Thiên Chúa không phải với tư cách một người hành hương nhưng với tư thế của một Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa, Ngài vào đó và chính thức can thiệp với tư cách quản lý và chủ nhân. Dĩ nhiên trong những lần hành hương trước, chắc chắn Chúa Giêsu đã lấy làm chướng tai gai mắt cái cảnh buôn bán, biến nơi cầu nguyện thành chợ búa, ồn ào, thành hang trộm cướp, bây giờ chính thức lãnh lấy trách nhiệm chu toàn công việc của Chúa Cha, Ngài phải chấm dứt ngay cảnh lộn xộn đó. Lòng nhiệt thành vì Cha đã khiến Ngài dùng mọi phương thế hữu hiệu nhất để thanh tẩy đền thờ, Ngài không sợ nguy hiểm khi phải ra tay dẹp loạn hầu thể hiện thánh ý Chúa Cha là đền thờ phải là nơi tôn nghiêm, thánh thiện.
Hành động thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu chắc chắn làm cho các trưởng tế khó chịu, bực tức, họ cho Ngài là một kẻ phản động, vì Ngài không có chức tư tế, cũng chẳng có nhiệm vụ nào trong đền thờ. Chúa Giêsu đã kết án cách tổ chức của các trưởng tế và gán cho mình một uy quyền trên họ, Ngài đã bãi bỏ việc phụng tự do Thiên Chúa thiết lập, và còn gán cho mình có quyền bằng Thiên Chúa, Đấng mà Ngài gọi là Cha, nếu vậy thì phải làm một phép lạ từ trời, nghĩa là từ Thiên Chúa để làm bằng chứng, vậy Chúa Giêsu đã làm phép lạ nào ?
Chúa trả lời : “Cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Các người Do Thái đã nghĩ ngay đến đền thờ bằng gạch đá, nhưng Chúa Giêsu không có ý nói đến đền thờ bằng gạch đá mà là đền thờ thân thể Ngài. Nghe Chúa nói thế, các trưởng tế tỏ vẻ khó chịu ra mặt, họ biết đền thờ đã được vua Hê-rô-đê sửa sang, xây dựng mất 46 năm mới xong, thế mà bây giờ Chúa bảo phá hủy đi và xây dựng lại chỉ trong ba ngày, họ không tin lời Chúa nói mà còn cho là Chúa phạm thượng, nên khi Chúa bị đưa ra tòa xét xử, họ đã đưa điều này ra để tố cáo Chúa. Thật ra ở đây Chúa muốn báo trước cho mọi người biết : Ngài sẽ bị giết chết nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại, Ngài dùng đền thờ làm hình ảnh để nói về thân thể Ngài là đền thờ đích thực của Thiên Chúa, lời tiên báo của Chúa đã xảy ra đúng như vậy.
Mỗi người chúng ta đều là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị, nhưng có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi đã chiếm mất chỗ của Chúa, vậy chúng ta phải trả lại chỗ cho Chúa bằng việc tẩy trừ tội lỗi. Chúa muốn chúng ta sống hiên ngang như đền thờ Giêrusalem, Chúa muốn chúng ta sống tự do độc lập hoàn toàn với tội lỗi, bởi vì phạm bất cứ tội gì, có tính hư tật xấu nào, mắc một đam mê nào là chúng ta làm nô lệ cho những thứ đó, như Chúa Giêsu đã nói : “Ai phạm tội là nô lệ cho tội”. Muốn độc lập với tội lỗi chúng ta phải đến với Chúa Giêsu, ăn năn sám hối, xin Chúa tha thứ, để được sống trong tự do của con cái Chúa.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
HÃY PHÁ NGÔI ĐỀN NÀY ĐI
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa thấy sự huy hoàng của Đền thờ, nhưng Chúa Giêsu lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào.
Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy ? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi, trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại. Thân thể của Chúa là Đền Thờ kỳ công của Mầu Nhiệm Nhập Thể. Người ta phá huỷ Đền Thờ này, chôn vùi vào lòng đất. Sau ba ngày, Chúa xây lại, đó là Mầu Nhiệm Phục Sinh. Chúa Giêsu Phục Sinh là Đền Thờ Mới, mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên Đền Thờ ấy.
1. Lịch Sử thành thánh Giêrusalem
Để hiểu câu nói của người Do thái: “Đền Thờ phải mất 46 năm mới xây xong”, chúng ta tìm hiểu đôi nét lịch sử thành thánh Giêrusalem.
Giêrusalem được xem là thành phố thiêng liêng của ba tôn giáo lớn trên thế giới: Do thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo. Tư liệu lịch sử cổ Ai Cập đã nói đến Giêrusalem, có từ 3.000 năm trước CN.
Với người Do Thái giáo, Giêrusalem là nơi Đavít lập thành đô.
Với người Kitô giáo, Giêrusalem là nơi xảy ra nhiều sự kiện cuối đời của Chúa Giêsu, nhất là biến cố tử nạn phục sinh của Ngài.
Với người Hồi giáo, Giêrusalem là nơi giáo chủ Mahômét đã đến hành hương, là thánh địa quan trọng của họ sau Mecca và Medina trung tâm của đạo Hồi ở Ả rập Sauđi.
Giêrusalem, tiếng Do Thái gọi là Yerushalayim, người Ả rập gọi là Al Quds, có nghĩa là thành phố văn hoá đa dạng. Như một trung tâm tôn giáo quan trọng vào thời cổ, thuộc miền Cận Đông, Giêrusalem như ngã tư nơi xảy ra nhiều cuộc tranh chấp. Khảo cổ xác minh điều đó ở những di tích của thành cổ còn sót lại.
Lịch sử của Thành Thánh là những cuộc chiến tranh, thôn tính, tàn phá và xây dựng lại. Đế quốc Babilon, Batư, Hylạp, La Mã, Byzantine, Thỗ Nhĩ Kỳ, Ottoman, Đế Quốc Anh đều đã đặt chân lên Giêrusalem. Có lẽ ít nơi nào trên thế ghi lại chứng kiến sự biến thiên cũng như sự cộng hưởng của nhiều nền văn hóa, tôn giáo như miền đất này. Trong mọi thời kỳ, đền thờ vốn là biểu tượng của Israel vinh quang và nhục nhã, trung thành và phản bội.
Ba ngàn năm trước CN, Giêrusalem chỉ là vùng đất nhỏ bé. Người Canaan đã đến đó sinh sống, đồng hoá sắc dân bản địa. Họ ở trên vùng đất cao, dùng nguồn nước cạnh Gikhon, nằm giữa hai thung lũng Cedron và Tyropocon. Khoảng năm 2000, dân Amôri chiếm được miền này. Khoảng 1800, họ thành lập thành luỹ ở Giêrusalem, tường thành bao gồm cả đất của dixième dân và chiếm Ôphel ở phía bắc, họ còn đào một đường hầm xuyên qua đá để lấy nước ở suối Gikhon. Vào thế kỷ 14, các bức thư của El Amarna cho biết Giêrusalem lọt vào tay một quân vương tên là AbbiHepa. Sự thống trị của người Canaan kéo dài tới thời Đavít.
Nằm trên độ cao 800m, bao gồm thành phố mới và thành phố cổ. Thành phố cổ do vua Đavít thành lập và con ông, vua Salomon đã cho kiến thiết một Đền thờ vĩ đại nhất thời bấy giờ, nhưng Đền thờ đã hai lần bị phá huỷ và bị người La mã bình địa năm 70 sau CN. Giêrusalem trải qua một quãng thời gian dài thành nơi linh thiêng của người Kitô giáo, nhưng năm 637 người Ả rập chiếm đóng và Giêrusalem lại thành thánh địa của đạo Hồi, họ tin rằng: chính trên mỏm núi Moriah, Mahomet đã bay về trời, thế là họ cho xây đền thờ Đá (Dome of the Rock). Năm 1099, Thập Tự quân chiếm đóng, Giêrusalem thành một nước thuộc quyền người Kitô giáo và sau cuộc đánh chiếm người Hồi Ottoman 1250 lại đặt dưới sự thống trị người Hồi Ả rập.
Sau chiến tranh thế giới lần I, năm 1922 Giêrusalem đặt dưới quyền kiểm soát của người Anh. Năm 1948, người Do Thái về lập quốc, chiến tranh xung đột giữa Israel và Ả rập xảy ra, Liên Hiệp quốc đã phân chia khu Cổ thành Thánh địa Giêrusalem thuộc về xứ Jordanie. Năm 1967, chiến tranh “Sáu ngày” Israel chớp nhoáng chiếm lĩnh khu Cổ thành. Năm 1980, viện Knesset (viện dân biểu) chính thức tuyên bố “thủ đô vĩnh viễn” bất chấp sự phản đối của khối Ả rập. Trong khu vực cổ thành có các bức tường từ thời Thổ Nhĩ Kỳ, những bức tường từ thời Salomon và Herod còn dấu tích và còn nhiều di tích thánh, những vết tích Đền Thánh còn sót lại. Mỗi tôn giáo đều có khu phố riêng: khu vực Kitô giáo nằm về phía Tây Bắc quanh mộ Chúa Giêsu; khu Hồi giáo năm hướng Đông Nam trên thung lũng Cedron.
Salomon xây Đền Thờ
Thế kỷ thứ 10 trước CN, Đavít lấy Giêrusalem làm trung tâm của nước Do Thái. Ông muốn xây một thành Thánh. Kế nghiệp cha, Salomon đã cho xây dựng một Đền Thánh nguy nga, lộng lẫy.
Vua Salomon có vàng bạc, đàn gia súc, có mùa màng và lòng kiêu căng nhưng không có vật dụng hảo hạng, thợ lành nghề và ý niệm nghệ thuật xây dựng. Vì vậy ông phải nhờ đến các người Tyrians, họ có đủ tài nguyên cần thiết và quan niệm kiến trúc cơ bản cộng với nghệ thuật của Ai cập và Assyria.
Trong vòng bảy năm, từ 1013 tới 1006, nhà của Giavê được hoàn thành. Giống như các đền đài Ai Cập, phần căn bản của nó là Pylon hay tiền đường mặc áo, cung thánh ngoại vi hay nơi thiêng liêng, phần bên trong linh thiêng hơn, nơi cực thánh không ai được đặt chân vào ngoại trừ các thượng tế, một năm một lần. Một số các phòng phụ cận dùng vào việc phục dịch đền thờ. Toàn bộ kiến trúc được dẫy cột bao quanh gọi là hành lang có mái. Phần này được hoàn tất muộn về sau.
Bên dưới Haram của Salomon là các hồ chứa nước dùng cho các nhu cầu của nhân viên phục vụ đền thánh và việc tế lễ. Còn việc tắm rửa thì đã có một bể bằng đồng lớn gọi là "biển đồng" ( the sea of Bronze). Nó bắt chước các chậu tắm của Susa và cuối cùng là cung điện vua thượng vị với hoàng hậu của ông ở. Ông cư ngụ bên cạnh Đức Chúa của mình.
Như thế, Salomon hoàn thành công trình thật tráng lệ. Các kích thước cùng với hình thể, hoa văn, phù điêu, chữ nghĩa là phổ thông nơi não trạng Ai cập. Chiều kích của từng phần và các chi tiết được trù liệu như các yếu tố của một bài toán mà lời giải là toàn thể kiến trúc. Nền cao bên hông tam giác đều, phía trước là tam giác vuông - mà theo Platô tam giác đẹp nhất, hoàn thiện nhất là tam giác vuông góc các cạnh được đo như sau 3, 4 và 5.
Việc trang trí gồm có các tấm phù điêu dát vàng theo như thói quen người Babylon. Sàn nhà làm bằng gỗ bá hương và thông già, gồm luôn cả vỉa hè. Các bình thiêng thánh gần như bằng vàng ròng toàn khối. Các bàn lễ vật, các chân đèn, các cánh thiên thần Cherubim khắc bằng gỗ dát vàng. Các dụng cụ tuỳ tùng khác được trang trí hào phóng.
Dân Israel đã đồng hóa tình yêu đền thánh với lòng sùng mộ Đức Chúa: "Lạy Đức Chúa các đạo binh, cung điện Ngài xiết bao khả ái, mảnh hồn này khát khao mòn mỏi, mong tới được khuôn viên đền vàng. Cả tấm thân con cùng là tấc dạ những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng" (Tv 83, 2-3).
Đất nước chia đôi, lưu đày
Vương triều của Salomon đến cuối đời thì bị phân chia. Trong số 12 chi tộc Israel chỉ có hai chi tộc – Giuđa và Benjamin – trung thành với nhà vua, còn các chi tộc khác lập một vương quốc mới, vương quốc Israel. Do vậy nước chia làm hai: Giuđa và Israel. Chiến tranh giữa hai nước xảy ra. Miền Bắc bị đế quốc Assyri xâm chiếm vào năm 721. Miền nam Giuđa Bị đế quốc Babilon tàn phá năm 587, Đền Thánh bị thiêu đốt, dân Do Thái phải tha phương cầu thực sống kiếp lưu đày.
Hồi hương, xây lại đền thờ lần thứ hai.
Đế quốc Assyri và Babylon bị đế quốc Ba Tư đánh bại. Năm 538, vua Ba Tư là Cyrus hạ chỉ cho phép người Do Thái lưu đầy được hồi hương trở về quê cha đất tổ. Vua Zorobabel xây dựng tạm đền thờ trên đống đổ nát. Nó được đặt trên nền cũ nhưng nhỏ hơn chút ít. Năm 537, Đền thờ bắt đầu được tái thiết nhưng 17 năm ròng rã vẫn chưa xong. Sau cùng, nhờ Khacgai và Giacaria, Đền thờ được hoàn thành, được xây cất theo Đền thờ của Salomon và cùng một kích thước. Năm 445, Nêhêmia xin vua Ba Tư xây dựng lại tường luỹ bảo vệ chung quanh. Ông thực hiện trong một thời gian kỷ lục, hai tháng thì xây xong.
Đế quốc Hylạp, anh em nhà Maccabê.
Rồi thành Giêrusalem bị đế quốc Hy lạp chiếm. Năm 166-165, một cuộc nổi dậy trong dân Do Thái, ngoài Mattathia còn có anh em nhà ái quốc Maccabê, họ nổi dậy và đã thành công. Tháng 12 năm 165 Giuđa chiếm được Đền thờ, tổ chức lễ Hanmica cũng gọi là lễ Ánh sáng, để nhắc lại ngày tẩy uế và dâng hiến lại Đền thờ cách trọng thể. Cuộc nổi dậy đó không là một sự thành công hoàn toàn nhất là về phương diện tôn giáo.
Hêrôđê xây đền thờ lần thứ ba.
Ngôi đền thứ hai tồn tại cho đến khi Pompey của Roma thôn tính Giêrusalem và Hêrôđê cả tự phong mình lên ngôi vua ở thành phố. Ông vua tiếm vị và sát nhân này cho xây lại đền thờ Zorobabel, để hoà giải với dân tộc Do Thái, nhất là giai cấp tư tế và đền bù muôn vàn tội lỗi đã xúc phạm đến dân tộc ấy. Ông cần tới ba năm để thu gom vật liệu cần thiết, và bám sát vào đồ án trước đây, chỉ tôn tạo dấu vết cổ xưa, cố gắng dựng lại cách sắp xếp thuở ban đầu, mặc dù chủ yếu dùng kỹ thuật Hy lạp – Roma.
Khi mọi sự đã sẵn sàng, Hêrôđê bắt tay vào việc. Mười ngàn thợ tốt được sử dụng dưới sự giám sát của một ngàn tư tế. Chỉ những tư tế này mới được làm việc nơi cung thánh và cực thánh. Trong vòng 18 tháng, phần "Naos" (nơi cực thánh) được hoàn tất và cung hiến. Tám năm nữa để xây dựng tiền đường và hành lang. Nhưng những công việc phụ kéo dài đến thời Agrippa, phỏng năm 64 sau công nguyên nghĩa là cho tới chiều hôm trước ngày lại bị tàn phá.
Xét theo tổng thể, thì ngôi đền Hêrôđê để lại, thể hiện quan niệm kiến trúc tinh tế. Các cột hành lang quay quanh một dinh cơ đồ sộ, cái nọ chồng lên cái kia, gọi là hiên hàng cột mà tuyệt đỉnh là chính cung thánh nằm ngay trên đỉnh đồi.
Coi từ phía xa, và trong nguồn ánh sáng thuận lợi, nó có một hiệu ứng ánh sáng kỳ diệu, tuờng đá cẩm thạch trắng, trang trí vàng bạc giống như một khối tuyết lóng lánh. Nhìn từ phía núi Olivêtê, khi mặt trời mọc nó sáng chói với các mái vòm mạ vàng, các cổng, các hoa văn, các dây leo to tuớng bằng vàng ròng ở cổng chính lấp loáng dưới ánh mặt trời lung linh. Trước quang cảnh rực rỡ đó, lòng khách hành hương không khỏi bùng lên một ngọn lửa kiêu hãnh, thì thầm lời Thánh vịnh: "Tại Sion, cảnh sắc tuyệt vời, Thiên Chúa hiển minh" (Tv 59,2).
Thế nhưng, khi thiên hạ tiến đến từng đoàn lũ từ khắp nơi để tham dự các lễ hội lớn, xô lấn nhau vào cổng, tràn ngập các sân. Khi các tư tế lăng xăng đây đó để chu toàn chức vụ. Khi các tiến sĩ tranh luận lề luật, chung quanh là học trò vãng lai hay thường xuyên. Khi hội đồng Sanhedrin nhóm họp để cân nhắc. Khi các chiên cừu, bò lừa, chiên dê được dẫn qua cổng để làm lễ hiến tế, khi các cùi hủi đến để được tẩy sạch, khi các người chồng lo lắng dẫn vợ tới chịu phép thanh tẩy bằng nước "cay đắng", khi những người đổi tiền, những lái buôn bồ câu và bánh tiến, thực hiện dịch vụ ồn ào, thì kiến trúc khổng lồ này trở nên náo nhiệt, sống động, diễn tả sức sống của tất cả những thứ mà nó đứng làm tiêu biểu. Lúc ấy toàn bộ nơi chốn uy nghiêm này đầy ắp tiếng lách tách của lửa cháy, tiếng rống của súc vật bị giết, tiếng nói, giọng cười, tiếng chân bước và kèn đồng thúc giục. Đền thờ giống như một “siêu thị”, tấp nập buôn bán, ồn ào náo nhiệt. Điều đó, khiến Chúa Giêsu nổi giận làm một cuộc “thanh tẩy đền thờ” (Ga 2). Khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ.Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi. Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo. Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận.Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.
Đế quốc Lamã phá đền thờ
Đối với người Do Thái, tôn giáo và chính trị là một. Những người kế vị Maccabê quá trần tục, họ tranh dành nhau địa vị, người thì tự xưng là vua: Aristôbôrô I; người tự xưng là Thượng tế: Hátmon. Người Do Thái phản ứng quyết liệt, họ phủ nhận quyền lãnh đạo tôn giáo cũng như chính trị đó. Trong bối cảnh đó, người La mã đã đặt chân đến theo lời mời giảng hoà việc tranh chấp giữa vua và Thượng tế. Dịp này, người La mã tiến vào Giêrusalem, nước Giuđa bị biến thành chư hầu. Hicanô được đặt làm vua Do Thái từ năm 37-4 trước CN, ông cho xây dựng Đền thờ. Dưới sự cai trị của quan tổng trấn La mã, Pônxiô Philatô (ông được hoàng đế Tibêriô bổ nhiệm năm 26, giữ chức vụ 10 năm, rồi bị mất chức năm 36 sau vụ giết hại một số người Samaria vô tội), Chúa Giêsu bị xử tử ở Giêrusalem.
Vào năm 70 sau CN, vị tướng La mã Titus đem đại quân vây hãm thành. Ông ra lệnh không được đốt phá. Một quân nhân như bị thúc đẩy bởi một sức kỳ lạ đã cầm bó đuốc đang cháy ném vào bên trong Đền thờ, lửa bốc cháy nhanh, không chữa được. Sau khi đám cháy tàn lụi, Titus ra lệnh phá huỷ thành và Đền thờ, ngoại trừ, như sử gia Josèphe cho biết, ba lều tháp và một bức tường, để cho hậu lai thấy sự kiên cố của thành bị phá.
Năm 132 vào thời hoàng đế Adrien, ông truyền xây một ngôi chùa thờ thần Jupiter, Giêrusalem gọi là Aelia Capitolina, là một thành chính thức thuộc về La mã. Năm 362, Julius mệnh danh là “người chối đạo” cho phép cũng như giúp mọi phương tiện cho người Do Thái xây lại Đền thờ, nhưng không thành vì khi khởi công có chuyện kỳ lạ là những ngọn lửa từ dưới nền móng bốc lên khiến thợ xây phải bỏ cuộc (sự việc đó đã được các giáo phụ như Grêgôriô Nazianze, Gioan Kim Khẩu và một số sử gia không có đạo sống vào năm 363 như Socrate, Sozomène, Theodoret kể lại).
Thời vua Constantin.
Năm 333 thời Constantin, người Do Thái được phép đến than vãn chỗ đặt Bàn thờ Toàn thiêu, ông cho phá đền Capitolina, để lộ thiên đồi Golgotha và mồ thánh. Thánh nữ Hêlêna, mẹ hoàng đế đã tìm ra Thánh giá của Chúa Giêsu và hai cây thập giá của hai tên tử tội, Constantin đã cho xây một giáo đường trùm lên khu vực đó.
Nhiều thăng trầm.
Thế kỷ thứ 5, bắt đầu có phong trào người Kitô hữu về hành hương Đất Thánh, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả đã cho lập nhiều lữ quán để đón tiếp các đoàn hành hương. Năm 614 người Ba Tư chiếm được Giêrusalem, đốt phá các nơi thờ tự, bắt thượng phụ Zacaria và lấy di tích Thập Giá đem theo. Ít lâu sau, Heracliô lấy lại được Thập giá trong tay người Ba Tư (629). Năm 638, người Ả rập chiếm được Giêrusalem, họ cho xây tại chính tâm Đền thờ giáo đường El Apsa, sau đó giáo đường Omar. Kể từ đó, người Do Thái thường đến than khóc tại bức tường Than Khóc. Người Hồi giáo đã chiếm Thánh địa từ lâu, nhưng các chủ nhân Ả rập này tương đối dễ dãi với các tín hữu địa phương và khách hành hương, miễn là nộp thuế cho họ. Hoàng đế Charlemange còn cho xây dựng một đan viện ở núi cây dầu. Nhưng từ năm 1009, vua Hakim phá Mồ Thánh. Năm 1071, Hồi giáo Ả Rập gốc Thổ Nhĩ Kì phá huỷ, bôi nhọ những nơi thánh thiêng nhất của Kitô giáo cũng như cản trản những đoàn hành hương Thánh địa.
Một cuộc chiến tranh mới xảy ra: chiến tranh của lòng tin. Bấy giờ, vua La mã, Alexius Commecus thỉnh ý Đức Giáo hoàng Urban II. Giáo hoàng cho triệu công nghị ở Clermont nước Pháp, người kêu mời mọi người sẵn sàng lên đường bảo vệ đức tin. Trước lời hiệu triệu vừa hùng hồn vừa thống thiết của Đức Giáo hoàng, như ngọn lửa nhiệt thành bốc cháy, mọi người từ tu sĩ, tín hữu la lên: “Chúa sẽ phù trợ”.
Đạo binh Thánh giá không phải là quân đội có tổ chức mà là sự tập trung ô hợp, nhưng không vì thế mà không có người lãnh đạo. Một đội quân mà thành phần là: tu sĩ, hiệp sĩ, nhà quý tộc, binh lính, nông dân, người buôn bán, có cả trẻ em.. Họ tin rằng họ thắng chỉ vì có Chúa độ trì... năm 1096, đoàn quân thứ nhất lãnh đạo của Godfrey of Bouillon đa phần là hiệp sĩ và những nhà quí tộc. Sau chín tháng ở Antioch...Tháng 6 năm 1099 họ bắt đầu vào Giêrusalem vào ngày 15/07/1099 họ chiếm được Giêrusalem. Khi tiến vào Mồ thánh họ đi bộ, đầu để trần, đến nơi họ quì gối rồi hôn phần đất mà Chúa Giêsu chịu chết. Họ cho xây các thánh đường mới, trong đó có thánh đường Mồ thánh, nhà Tiệc ly...
Năm 1187, Saladin chiếm được Giêrusalem. Năm 1516, lại rơi vào tay người Thổ Nhĩ Kỳ.
Vào năm 1540, Soliman II cho xây một tường luỹ ở phía Bắc chạy dọc theo tường luỹ của Agrippa, còn phía Nam nơi từ tường thành phía nam Đền thờ chạy dài đến phía bắc Nhà Tiệc Ly. Đó là bức thành hiện có và cũng từ đó bắt đầu thời suy tàn...
Giêrusalem bây giờ được phân chia thành hai phần rõ rệt. Phần ngoại thành được xây cất hiện đại, với những cơ quan đầu nảo của chính phủ Dothái. Phần Cổ Thành, nằm trong bức tường đá cổ xưa, với các nơi thánh đối với Kitô giáo, cũng như Do Thái giáo và Hồi giáo.
2. Ngôi Đền Thờ mới.
Người Do thái xưa đã xây 46 năm mới xong Đền Thờ. Họ tự hào về công trình vĩ đại ấy. Chúa Giêsu lại nói đến ngôi đền thờ thân xác Ngài, một kỳ công không gì sánh nổi, vì đó là Mầu Nhiệm Thiên Chúa làm người. Chúa cho phép thần chết đựơc quyền hành động. thân xác Chúa đã bị huỷ diệt, chôn vùi trong nấm mồ lạnh tử khí.
Người Do thái tin rằng công trình kiến trúc do tay họ dựng lên sẽ bất diệt. Vì thế họ phẫn nộ khi nghe Chúa nói đến ngôi đền thờ sẽ bị phá, lại còn đựoc xây mới chỉ trong ba ngày. Câu nói của Chúa làm họ chói tai. Họ căm phẫn và tìm mọi cách để loại trừ Ngài.
Con người mọi thời đại cũng có những “ngôi đền” mà họ tin là sẽ bất diệt. Những “ngôi đền” đựơc dựng lên để con người tôn thờ chính mình. Chúng rất kiên cố vì được xây bằng cố chấp và tham vọng, được trang trí bằng giả dối và thủ đoạn của con người.Trải qua các thời đại, “ngôi đền” của con người có rất nhiều kiểu cách, nhiều mẫu mã, nhiều thương hiệu. Nhưng tựu trung vẫn thể hiện một phong cách kiến trúc duy nhất: chuộng tiền tài, ưa quyền lực, ham vật dục. Phong cách kiến trúc này rất thích hợp để thờ những ông thần độc tài, độc đoán và độc tôn.
Chúa Giêsu đến để phá huỷ những ngôi đền đó và dựng ngôi đền thờ mới. Ngôi đền thờ mới chính là Thân thể được Thần khí hoá của Chúa. Thánh Phaolô mô tả ngôi đền thờ ấy với một lối kiến trúc mới: “bác ái, vui mừng, bình an, nhẫn nại, nhân từ, hiền lành, khoan dung, trung thực, khiêm tốn, tiết độ” (Gal 5,22). Ngôi đền thờ mới bất diệt vì Đấng Cứu Độ đã chiến thắng tử thần.
Lịch sử đền thờ Giêrusalem trải qua những thăng trầm thịnh suy. Đền thờ mới vững bền muôn vạn thưở. Đền thờ mới là một thách đố đối với thế gian vốn chỉ quen tôn thờ quyền lực, giàu sang và tham lam vô độ.
Giữa xã hội hôm nay, “bác ái, vui mừng, bình an, nhẫn nại, nhân từ, hiền lành, khoan dung, trung thực, khiêm tốn, tiết độ” trở thành những âm thanh lạc lõng, khó chịu đối với dòng thác âm thanh cuồng nộ trong cơn say thế tục.
Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến đền thờ. “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa,mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69,10). Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Chúa Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x. Ga 15,5).
“ Hãy phá huỷ đền thờ này đi”; những đền thờ thế tục cũ kỹ, hãy phá bỏ. Hãy nhiệt tâm cùng Chúa Giêsu xây dựng đền thờ mới để chúng ta luôn sống trong bình an và hoan lạc của Thánh Thần.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
THANH TẨY TÂM HỒN
TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Đọc sách Tin Mừng, rất ít khi ta thấy Ðức Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa. Ngài lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội. Chính Ngài đã mời ta học nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhượng. Vậy mà trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay ta lại thấy Ðức Giêsu đùng đùng nổi giận: Ngài dùng roi xua đuổi những người buôn bán bồ câu, chiên bò ra khỏi đền thờ. Ngài còn lật nhào bàn ghế của những người trao đổi tiền bạc! (Ga.2:15)
Khi người ta thắc mắc hỏi Ngài lấy quyền gì mà làm như thế, Ngài cho biết "Cứ phá đền thờ này đi, trong vòng 3 ngày tôi sẽ xây lại" (Ga.2:19). Qua câu trả lời đó, Ðức Giêsu cho biết chính thân xác Ngài là Ðền thờ.
Khi cho ta biết thân xác Người là đền thờ, Ðức Giêsu cũng cho ta biết rằng : Thiên chúa muốn ngự trong tâm hồn con người hơn là trong những nhà thờ bằng đá bằng gạch, dù là rất sang trọng đẹp đẽ. Chúa yêu thương con người. Niềm vui của Chúa là được ở giữa loài người. Tâm hồn con người chính là một cung thánh ấm áp cho Chúa ngự. Chúa đâu muốn ở trong những ngôi nhà thờ to lớn, đồ sộ, sang trọng, lộng lẫy, nhưng lại lạnh lẽo, chẳng có tiếng đọc kinh cầu nguyện, chẳng có lòng sốt mến. Chúa yêu thương và Chúa muốn được đáp lại bằng tình yêu. Chúa muốn ở trong đền thờ tâm hồn con người. Tâm hồn con người chính là đền thờ, là cung thánh đẹp đẽ nhất mà Chúa yêu thích ngự đến. Và như thế, Ðức Giêsu là một nhà thờ đẹp đẽ nhất, cao quí nhất, là mẹ của các nhà thờ.
Khi xua đuổi súc vật ra khỏi đền thờ, Chúa cho ta biết rằng : Lễ vật quí giá không phải do giá trị vật chất nhưng do tấm lòng. Cách cho quí hơn của cho. Khi xua đuổi súc vật ra khỏi đền thờ, Ðức Giêsu cho biết của lễ Chúa vui nhận không phải là thịt bò, thịt dê, nhưng là chính con người của ta, là tâm hồn của ta như lời thánh vịnh : "Máu chiên bò, Chúa không ưng, của lễ toàn thiêu Chúa không nhận, thì này con đến để làm theo ý Cha". Hiểu điều đó, nên Ðức Giêsu dâng mình làm của lễ toàn thiêu thay cho của lễ cũ là chiên bò. Trên thập giá, người trở thành của lễ cao quí, đẹp lòng Ðức Chúa Cha để chuộc tội cho con người.
Khi xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, Ðức Giêsu cho ta biết : Tâm hồn ta là đền thờ của Chúa, là cung thánh cho Chúa ngự. Tâm hồn ta là của lễ dâng lên Chúa. Nhưng để đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự. Ðể của lễ xứng đáng được Chúa chấp nhận, ta phải thanh tẩy tâm hồn ta: Thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi tính toán mưu mô. Thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi đam mê dục vọng. Thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi giận hờn ghen ghét. Thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi kiêu căng tự mãn. Thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi gian dối lọc lừa. Thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi ích kỷ hẹp hòi. Thanh tẩy tâm hồn khỏi thói tôn thờ tiền bạc, coi trọng tiền bạc hơn Chúa. Thanh tẩy tâm hồn khỏi thói gian tham, bất công.
Hãy kính trọng thân xác của mình và của người khác vì đó cũng là Ðền Thờ của Chúa . Hãy tu bổ những Ðền Thờ thân xác đã xuống cấp, suy tàn, bị xúc phạm, bị bán rẻ. Hãy sửa chữa những Ðền Thờ thân xác đang bị bào mòn vì bệnh tật, vì đói khát, vì thương tích.
***
Lạy Chúa! Xin ban ơn giúp sức cho con để con luôn biết cố gắng nỗ lực thanh tẩy tâm hồn để xứng đáng là Ðền Thờ cho Chúa ngự, xứng đáng trở thành của lễ dâng lên Thiên Chúa. Amen
TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Ðem TẤt CẢ nhỮng ThỨ Này Ra KhỎi Ðây
Manna
X LỜi Chúa: Ga 2, 13-25
2 Hôm ấy, Ðức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. 13 Gần đến lễ Vượt Qua của người Dothái, Ðức Giêsu lên thành Giêrusalem. 14 Người thấy trong Ðền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. 15 Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Ðền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. 16 Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Ðem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán". 17 Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.
18 Người Dothái hỏi Ðức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?" 19 Ðức Giêsu đáp: "Các ông cứ phá hủy Ðền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại". 20 Người Dothái nói: "Ðền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?" 21 Nhưng Ðền Thờ Ðức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. 22 Vậy, khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Ðức Giêsu đã nói.
23 Trong lúc Ðức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm. 24 Nhưng chính Ðức Giêsu không tin họ, vì Người biết họ hết thảy, 25 và không cần ai làm chứng về con người. Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng con người.
X Suy NiỆm
Trong sách Tin Mừng, hiếm khi ta thấy Ðức Giêsu nổi giận.
Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa. Ngài lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội. Chính Ngài đã mời ta học nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhượng. Vậy mà ở đây ta lại thấy Ðức Giêsu dùng roi để đuổi những người buôn bán bồ câu, chiên bò, Ngài còn lật nhào bàn ghế của những người đổi bạc!
Dù rằng những chuyện buôn bán này chỉ diễn ra ở ngoài phạm vi Ðền Thờ, nơi tiền đình dành cho dân ngoại, nhằm phục vụ cho nhu cầu tế tự của những người đi hành hương vào dịp lễ Vượt qua, nhưng Ðức Giêsu vẫn thấy đó là một điều bất kính, vì chúng tạo ra một bầu khí ồn ào, hỗn độn.
Ðức Giêsu vốn qúy trọng Ðền Thờ Giêrusalem. Ngài gọi đó là nhà Cha của tôi, nhà cầu nguyện. Ngài không muốn nơi Thánh này trở thành cái chợ. Ngài không chấp nhận nhà của Cha Ngài bị xúc phạm.
Chính tình yêu đã khiến Ðức Giêsu nổi giận. Ngài thấy cần phải thanh tẩy Ðền Thờ, dù điều đó sẽ đưa Ngài đến chỗ thiệt thân. "Cứ phá hủy Ðền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại."
Ðức Giêsu ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Ðền thờ ở đây là chính thân thể Ðức Giêsu. Thân thể được phục sinh của Ngài sẽ là Ðền Thờ mới, nơi nhân loại thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực
Ðức Giêsu đã thanh tẩy Ðền thờ Giêrusalem. Ngài cũng muốn thanh tẩy các nhà thờ của chúng ta. Ngài muốn chúng thực sự là nơi thờ phượng, nơi lắng đọng để con người gặp gỡ Thiên Chúa. Có khi thánh lễ của chúng ta trở nên máy móc, buồn tẻ. Có khi lại ồn ào, nặng tính trình diễn. Dù sao thánh lễ vẫn cần một cái hồn, một sức sống lan tỏa từ Chúa Giêsu phục sinh.
Ðể tâm đến việc sửa nhà thờ là cần, nhưng không đủ. Mỗi Kitô hữu cần để tâm xây dựng con người mình, bởi lẽ đó là đền thờ của Cha và Con (x. Ga 14,23). Chính thân xác ta cũng là đền thở của Thánh Thần (x. 1Cr 6,19).
Có những đền thờ thánh thiêng đã trở nên phàm tục. Ðam mê vô độ của thân xác đã trục xuất Thánh Thần. "Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây !" Chúa Giêsu hôm nay cũng giận dữ như thế khi thấy con người của chúng ta bị vấy bẩn, đền thờ của Ba Ngôi bị nhơ nhớp. Tha nhân quanh ta cũng là những đền thờ. Có nhiều đền thờ bị xuống cấp, tước đoạt và sụp đổ...
Mùa chay là mùa tu sửa các đền thờ, để mọi đền thờ đều dẫn đến Ðền Thờ Giêsu.
X GỢi Ý Chia SẺ
· Bạn nghĩ gì về bầu khí nơi nhà thờ của bạn? Bạn nghĩ gì về bầu khí của Thánh Lễ? Bầu khí đó có giúp bạn lắng đọng để gặp mình và gặp Chúa không?.
· Trong mùa Chay này, bạn thấy có đền thờ nào cần sửa gấp không? Ðền thờ lòng bạn có gì cần phải loại bỏ để có chỗ cho Chúa không?
X CẦu NguyỆn
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì không tìm được một người để tin; vẫn có những người đã chết từ lâu mà vẫn tưởng mình đang sống; vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm; vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống; vẫn có những người bị sống bên lề xã hội, dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ và biết chạnh lòng thương như Con Cha. Nhưng trước hết, xin cho chúng con
nhìn thấy chinh bản thân chúng con.
Manna
ĐỀN THỜ NƠI GẶP GỠ THIÊN CHÚA VÀ THA NHÂN
Ga 2, 13-25
Gp. Vĩnh Long
Có một câu chuyện kể rằng: Vua Salomon đang tìm kiếm một nơi lý tưởng để xây dựng Đền Thờ cho Thiên Chúa. Ông đã triệu tập những bậc thông thái trong dân Israel cho ông lời khuyên về việc này. Không một lời khuyên nào làm ông hài lòng, cho đến khi ông nghe được phát biểu của người cuối cùng. Vị thông thái này đã kể rằng:
“Tôi biết có hai anh em kia, một người đã có vợ con, còn người kia vẫn độc thân. Họ đều là nông dân, cày bừa trên những mảnh đất như nhau do người cha chia phần trước khi ông chết. năm nay, họ đều có một mùa gặt bội thu. Quả thật, thóc lúa của họ chất đầy nhà.
Một buổi tối nọ, người anh không thể ngủ được; anh ta nghĩ về người em của mình. Anh tự nhủ: “Em trai tôi sống một mình, nó không có vợ con. Nếu nó lâm bệnh thì sẽ không có ai thay nó trong việc đồng áng, năm tới nó sẽ không có thu hoạch. Và số lúa hiện tại của nó sẽ không đủ đến mùa gặt tới. Tôi phải chia sẽ cho nó một ít lúa của tôi. Nhưng tôi phải làm điều đó thật bí mật, vì nếu nó biết được chắc chắn nó sẽ không nhận số lúa ấy”. Người anh quyết định mỗi tối vác một bao lúa bỏ vào kho người em một cách kín đáo để người em không thể phát hiện.
Vào chính buổi tối hôm ấy, người em cũng không thể ngủ được, nó đang nghĩ về người anh và gia đình anh ta. Người em tự nhủ: “Tôi sống có một mình, trong khi gia đình họ có tới 5 người. Nhưng chúng tôi có cùng một số lượng lúa trong kho. Nhu cầu họ gấp 5 lần nhu cầu của tôi. Điều này không công bằng. Tôi phải chia sẻ lúa của tôi cho họ, nhưng tôi phải làm một cách bí mật”. Vì thế, anh ta quyết định hàng đêm vác một bao lúa bỏ vào kho của người anh một cách âm thầm để người anh không phát hiện ra.
Mỗi buổi sáng, hai anh em có thói quen kiểm tra kho lúa của họ. họ không hiểu điều gì đã xảy ra: kho của họ vẫn còn đầy các bao lúa, số bao lúa chất trong kho của họ không thay đổi. Cả hai anh em đều rơi vào khủng hoảng “toán học”. Nhưng họ vẫn tiếp tục công việc bí mật của mình.
Một tối nọ, hai anh em bắt đầu công việc bí mật như thường lệ. Mỗi người vác trên lưng một bao lúa, di chuyển cẩn thận để không bị người khác phát hiện. Đang đi trên cùng một con đường, họ đột nhiên đâm sầm vào nhau trong đêm tối. Nửa tức giận, nửa kinh ngạc, họ đánh rơi bao lúa của mình trước mặt người kia. Nhưng lạ thay, họ vô cùng sửng sốt vì bí mật đã bị tiết lộ một cách không thể cứu vãn. Hai anh em ôm nhau khóc một cách vui mừng”.
Trước khi nhà thông thái kết thúc câu chuyện, vua Salomon đứng dậy và nói: “Hãy đưa ta đến ngay nơi mà hai anh em gặp nhau, ta sẽ xây Đền Thờ cho Đấng Tối Cao đúng ở vị trí đó”.
Câu chuyện thật cảm động và đầy ý nghĩa. Mặc dù câu chuyện giả tạo trăm phần trăm, hư cấu từ A đến Z, nhưng người kể câu chuyện này cũng tỏ tâm ý như sau: Vua Salomon vẫn nổi tiếng là vị vua khôn ngoan và tài giỏi, ông đã quyết định đúng: Đền Thờ của Thiên Chúa chỉ có thể được xây dựng nơi tình yêu hỗ tương giữa anh chị em với nhau. Hay nói khác hơn, Đền Thờ Thiên Chúa chỉ có thể tồn tại khi mà con người sống tình yêu giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau.
Đối với dân Do Thái, Đền Thờ Giêrusalem là trung tâm tôn giáo của cả dân tộc, là nơi Thiên Chúa ngự trị, là nơi tế lễ cho Thiên Chúa và là nơi cầu nguyện cho muôn dân, cho nên Đền Thờ luôn luôn mang tính chất linh thiêng thánh thiện. Thế nhưng, con người đã dần dần biến một phần nơi thánh thiện ấy thành nơi buôn bán và trao đổi tiền bạc, mặc dù với lý do tốt đẹp bên ngoài là phục vụ việc tế lễ cho Thiên Chúa. Do đó, trong bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy: Chúa Giêsu đã nổi giận, Ngài yêu cầu mọi người trả lại cho Đền Thờ sự thánh thiện của nó. Bởi vì, Đền Thờ đã không còn thực sự là nơi để con người sống tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân nữa, mà nó đã trở thành nơi buôn bán và là hang trộm cướp. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã nổi cơn thịnh nộ với những kẻ buôn bán, đổi chác, Ngài lấy dây thừng làm roi để đánh đuổi bọn họ cùng với chiên bò, hất tung tiền bạc và xô đổ bàn ghế của họ, để Ngài dạy cho họ biết ý nghĩa đích thực của Đền Thờ.
Trong đời sống thực tế của chúng ta cũng vậy, Nhà Thờ chính là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người, là nơi chúng ta thể hiện sự thờ phượng, tôn kính đối với Thiên Chúa. Do đó, mỗi người chúng ta cần phải có thái độ nghiêm trang xứng đáng khi đi đến nhà thờ và không bao giờ làm điều gì bất kính ở nơi tôn nghiêm này. Đồng thời, Nhà Thờ cũng là nơi gặp gỡ giữa người với người, là nơi thể hiện tình yêu thương giữa con người với nhau, bởi vì tất cả mọi người chúng ta đều là anh em với nhau, cùng chung một Cha trên trời; Nhà Thờ là nơi thể hiện tình yêu thương chia sẻ cho nhau, không phải là những “bao lúa” như câu chuyện trên, nhưng là thể hiện tình yêu thương chia sẻ qua Lời Chúa, qua Mình Thánh Chúa. Cho nên, chúng ta không thể đến nhà thờ với tâm hồn thù hận, giận hờn, ghen tương, ích kỷ đối với người khác.
Chính vì thế, khi cử hành phụng vụ Chúa Nhật III Mùa chay, lắng nghe giáo huấn của Hội Thánh về Đền Thờ. Mỗi người chúng ta hãy nhìn lại thái độ của mình mỗi khi đến Nhà Thờ. Chúng ta có thực sự đến Nhà Thờ để gặp gỡ, cầu nguyện, thờ phượng Chúa hay chưa? Hay là chúng ta đến Nhà Thờ chỉ vì lề luật phải giữ ngày Chúa Nhật. Chúng ta đến Nhà Thờ có để tâm hồn, lòng trí của mình hướng về Chúa hay chưa? Hay thân xác chúng ta hiện diện trong Nhà Thờ này, nhưng lòng trí của chúng ta lại hướng đến những công việc khác, những con người khác. Ngoài ra, mỗi lần đến Nhà Thờ chúng ta có sẵn lòng gặp gỡ tha nhân, yêu thương tha thứ cho anh chị em mình hay chưa? Hay chúng ta ở trong Nhà Thờ mà cứ để cho tâm hồn của mình chìm đắm trong sự thù hận, giận hờn, ghen tương, sống ích kỷ chỉ lo cho bản thân của mình mà không giúp đỡ, chia sẻ cho người khác.
Mùa chay là thời gian chúng ta nhìn lại đời sống của mình, để thay đổi lối sống của mình. Với Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại mối tương quan của chúng ta đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân như thế nào, để xin Chúa thanh tẩy tâm hồn của chúng ta, thanh tẩy cuộc sống của chúng ta trở nên một con người mới, một đời sống mới. Và nhờ đó, mỗi lần chúng ta đến Nhà Thờ, chúng ta mới có thể thực sự thờ phượng, tôn kính Thiên Chúa và thể hiện tình yêu thương đối với anh chị em của mình như Chúa Giêsu mong muốn nơi mỗi người chúng ta. Amen.
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY
Ga. 2, 13 – 25
Gp. Vĩnh Long
Anh chị em thân mến.
Có những lần tôi đi chợ, len lõi và đôi khi phải chen lấn để vượt lên phía trước, vậy mà cũng có những lúc phải dừng lại. Quan sát kỷ, thì không phải những người đi chợ làm cho sự lưu thông bị tắt nghẽn. Nhưng chính những người ngồi mới làm cản trở lưu thông. Họ ngồi với một chướng ngại vật phía trước, chiếm một khoảng không gian rộng cùng với những vật dụng trên đó. Họ kêu mời những người đi ngang qua, ghé mắt vào những món hàng mà họ bày bán. Nhưng bổng nhiên, có một sự náo động và lưu thông được dể dàng trở lại. Thì ra xuất hiện bóng dáng một người, mặc bộ đồ đặc biệt, với chiếc băng vấn trên tay áo. Đây là người trong ban quản lý chợ, anh ta đi để lập lại trật tự cho nơi buôn bán. Công việc đó cứ diễn ra mỗi ngày : Cứ có những người bán rong, và cũng vẫn phải có người lập lại trật tự. Vì người ta chỉ biết tìm lợi ích riêng tư mà không nhìn thấy những ích lợi chung, nên ban quản lý chợ cứ phải làm việc, phải đi, phải dẹp, để lập lại trật tự.
Chúa Giêsu là người quản lý đền thờ, còn hơn thế nữa, Ngài còn là chủ đền thờ. Ngài không thể chịu được khi nhìn thấy đền thờ không có một chút trật tự nào hết. Đền thờ là nơi tôn nghiêm mà giờ đây đã trở thành nơi ồn ào náo nhiệt của buôn bán. Đền thờ là nơi cầu nguyện , mà giờ đây trở thành nơi trao đỗi và gian lận. Đền thờ là nơi dành riêng cho Thiên Chúa, nơi để con người gặp gỡ Thiên Chúa, mà giờ đây con người đã biến thành nơi của riêng mình để biếng thành nơi phục vụ cho lợi ích riêng tư. Ngài mới lập lại trật tự trong đền thờ. Đi xa hơn nữa, Ngài muốn hướng con người đến ngôi đền thờ thật sự là tâm hồn của mỗi người. Đền thờ vật chất, theo thời gian , nó chẵng còn giá trị và sẽ bị phá đỗ, vì nó là sản phẩm do con người tạo nên, nó sẽ bị biến chất. Thiên Chúa không cần một đền thờ đã bị biến chất. Ngài cần một đền thờ thật sự trong tâm hồn mỗi người, đền thờ đó luôn phải xứng đáng với những gì mà Thiên đã xây dựng nên nó từ thuở ban đầu. Nếu nó không xứng đáng, Ngài sẽ không ngần ngại dùng roi để lập lại trật tự cho ngôi đền thờ của Ngài được xứng đáng hơn.
Có thực mới vực được đạo.
Câu nói mà bao nhiêu người đã dùng nó để biện hộ cho những hành vi sai trái của mình. Biện hộ cho hành vi lười biến : nào là con nghèo khổ quá, không còn thời gian đến nhà thờ, không thể giữ đạo được, không thể chăm sóc con cái cho tốt được. Nào là không có thời gian để làm việc bác ái, không có thời gian để sống đạo cho tốt. Nhưng cuối cùng là gì ? chẵng qua là vì lười biến, ích kỷ, muốn tìm những lợi lộc cho bản thân mà chúng ta bất chấp tất cả. Chúng ta để ra bên ngoài tất cả những luật công bằng, yêu thương, chúng ta cũng chẵng cần biết đến Thiên Chúa của mình đã nói gì, đã dạy những gì.
Còn thân xác nầy, chúng ta xem nó như là vật sở hữu riêng của chính mình, để rồi chúng ta tùy tiện xử dụng nó vào bất cứ công việc gì cũng được, xấu có , tốt cũng có, ngay chính có, mà bất chính cũng có. Chúng ta quên rằng thân xác nầy là do chính Thiên Chúa dựng nên, và thân xác nầy là đền thờ cho Thiên Chúa ngự. Do đó chúng phải có bổn phận gìn giữ thân xác luôn tốt đẹp để xứng đáng đón rước Chúa. Nếu giờ nầy Chúa đến viếng ngôi đền thờ của mỗi người chúng ta, thử hỏi Ngài có thể yên tâm ngự trong đó cách thoải mái được không ? Hay Ngài phải giận dữ tìm một chiếc roi để dẹp tất cả những chướng ngại vật đang ngổn ngang trong ngôi đền thờ nầy. Chúng ta thử nhìn lại xem , giờ nầy cái gì đang thống lĩnh và chiếm hết tâm hồn của mình. Có phải là Thiên Chúa mà chúng ta hằng tôn thờ hay là chúng ta đã đem Thiên Chúa để bên ngoài , còn hiện tại, chúng ta đang tôn thờ cái gì ? có phải là tiền bạc, hay địa vị chức quyền, hoặc những đam mê nào khác. Để tất cả những cái đó thống lĩnh cuộc sống và điều khiển tất cả mọi hành động của chúng ta. Con tim đã chay lì khô cứng, ngôi đền của Thiên Chúa không còn được một trật tự tốt đẹp nữa. Thiên Chúa sẽ đánh đổ những tiền bạc, tẩy chay dọn sạch những gì đang được bày biện trong tâm hồn chúng ta để Ngài tái lập trật tự cho ngôi đền thờ của Ngài. Đó là những lúc chúng ta gặp thất bại với những toan tính bất chính, và cũng là những lúc công việc làm ăn không được thuận lợi, mặc dù mình đã cố gắng hết sức. Những lúc đó chúng ta có biết nhớ đến Chúa, nhìn lại chính mình, thì thật hạnh phúc biết bao
Xin Chúa ban ơn giúp cho mỗi người được trở nên xứng đáng là ngôi đền thờ cho Thiên Chúa ngự.
ĐỀN THỜ TÂM HỒN
Ga 2, 13 -25
Gp. Vĩnh Long
Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái có những hội đường để mỗi ngày thứ bảy, họ đến đây để nghe Lời Chúa và cầu nguyện. Đây chỉ là hội đường, chứ không phải là nhà thờ như chúng ta ngày nay. Người Do thái chỉ có một nhà thờ duy nhất tại Giêrusalem để tế lễ Thiên Chúa, đây là một nơi linh thiêng thánh thiện. Vậy tại sao lại có chuyện buôn bán, đổi chác tiền bạc ở đền thờ, đến nỗi Chúa Giêsu phải nổi giận, phải xua đuổi?
Trước hết, về việc buôn bán ở đền thờ. Mỗi năm, vào những dịp đại lễ, như lễ Vượt qua, lễ Ngũ Tuần… theo tập tục và thói quen đã trở thành một luật lệ, bắt buộc các tín hữu khi đến đền thờ dự lễ đều phải dâng vào đền thờ một lễ vật nào đó làm của lễ dâng Thiên Chúa. Người giàu có thì dâng chiên, dâng bò, người nghèo thì dâng bánh rượu, dầu hương, chim câu… Nhưng vì gần đền thờ không có chợ, nên các tư tế đã lợi dụng cơ hội để làm ăn: hoặc là chính họ hoặc họ cho phép các con buôn đã nộp thuế cho họ, được buôn bán các thứ lễ vật đó cho những người đến dự lễ. Và đã là chuyện buôn bán thì có người mua kẻ bán, người trả người thách, lại với số đông người, không thể nào không ồn ào, om xòm, lộn xộn… làm cho khu vực đền thờ có vẻ là một chợ phiên hơn là nơi yên tĩnh để cầu nguyện và tế lễ.
Về chuyện đổi chác tiền bạc. Theo luật buộc: mỗi năm, mỗi người trưởng thành phải nộp ½ đồng Xêken, tức là một nửa đồng tiền Do thái. Đây là một thứ thuế nghĩa vụ, ai cũng phải nộp và chỉ được nộp tiền Do thái, chứ không nộp thứ tiền nào khác, mặc dầu thời ấy tiền Rôma và tiền Hy lạp rất thông dụng, và vì những thứ tiền ấy in hình vua ngoại đạo, nên tiền đó bị cấm lưu hành trong khu vực đền thờ. Vì thế, để có tiền Do thái nộp thuế cho đền thờ, những người đến dự lễ phải đổi tiền. Đó là lý do sinh ra cái nạn đổi tiền và có những quầy đổi tiền trong đền thờ.
Trước sự bất kính đối với đền thờ như thế, Chúa Giêsu đau xót và nổi giận. Ngài xua đuổi họ. Việc này làm cho các tín hữu hài lòng, duy có nhóm tư tế bực mình, hạch hỏi Chúa : “Ông lấy dấu nào để chứng tỏ cho chúng ta thấy là ông có quyền làm như thế ?”. Chúa bảo họ: “Các ông cứ phá đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây lại”.
Qua đó, chúng ta thấy hành động của Chúa Giêsu không chỉ là xua đuổi các con buôn, không chỉ là đụng chạm đến quyền lực và lợi nhuận của hàng tư tế, nhưng sâu xa hơn, Chúa Giêsu muốn phục hồi lại một cung cách thờ phượng đã bị biến chất. Vậy thì đối với chúng ta hôm nay, đoạn Tin mừng này có ý nghĩa gì không ?
Chúng ta đang sống trong mùa chay, đoạn Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, mỗi người tín hữu được coi là một đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng hiện giờ đền thờ ấy có xứng đáng để Thiên Chúa ngự không, hay tâm hồn chúng ta đã trở thành một cái chợ trưng bày đủ mọi thứ, có những thứ cấm kỵ như: tham vọng, ích kỷ, hận thù, bất trung, ghen ghét, gian dối…? Không nhiều thì ít, có lẽ đền thờ nơi mỗi người chúng ta còn đang bất xứng, và chúng ta cũng cần thanh tẩy, cần sửa chữa.
Thứ hai, gia đình Kitô hữu cũng được mời gọi trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Vậy trong ngôi đền thờ gia đình ấy, các thành viên có biết lấy sự yêu thương, sự khoan dung tha thứ mà đối xử với nhau, hay ngôi đền thờ gia đình đó đã trở thành quán trọ mạnh ai nấy sống ? Liệu trong ngôi đền thờ ấy có Thiên Chúa ngự trị hay đang bị đủ mọi thứ chi phối, những thứ có tên là tiền bạc, là tham vọng, là tính toán, là hận thù, là gian dối ?
Tóm lại, mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị. Nhưng có thể Thiên Chúa đã mất bị chỗ, nghĩa là tội lỗi, những cái xấu, những cái tiêu cực… đã chiếm chỗ của Chúa. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những cái đó để trả lại chỗ cho Thiên Chúa bằng sự ăn năn sám hối và cải thiện đời sống của mình.
Xin Chúa cho Mùa chay thánh này là mùa hồng ân cho mỗi người chúng con: cho mỗi người chúng con trở thành một đền thờ xứng đáng, và cho gia đình chúng con cũng là một đền thờ tốt đẹp, để Thiên Chúa ngự trị, chúc lành và ban ơn cho chúng con. Amen.
NHIỆT TÂM VÌ NHÀ CHÚA
Ga1, 13-25
Gp. Vĩnh Long
Tin mừng hôm nay vẽ ra trước mắt chúng ta một cảnh tượng ồn ào, hỗn độn và bát nháo chưa từng thấy: nào người, nào súc vật, bàn ghế, tiền nông . . . một cảnh chen lấn và mong tìm vụ lợi. Ai cũng muốn cho mình được phần tốt nhất, những người buôn bán cũng như những người đi tìm lễ vật. Sân Đền thờ trở thành một cái chợ không hơn không kém. Những ai có lương tâm ngay lành và tinh thần yêu mến Thiên Chúa đích thực không khỏi không đau lòng. Vì thế, Chúa Giêsu phản ứng dữ dội là điều cũng dễ hiểu thôi. Ngài nổi giận và hành động có tính “bạo động” là vì “sự nhiệt tâm đối với Nhà Chúa”.
Chúng ta thường quen thuộc với hình ảnh một Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, ngọt ngào và êm ái nên có lẽ chúng ta hơi ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu có vẻ “dữ tợn” và nổi giận ào ào như thế. Thật ra, hành động của Ngài là hành động giống như hành động của một người cha, người mẹ thấy con cái mình sai lỗi nên sửa dạy chúng vậy thôi. Giận vì yêu! Ngài muốn chỉ cho giới lãnh đạo tôn giáo Do thái lúc bấy giờ cũng như dân chúng đâu là giá trị đích thực của việc tôn thờ Thiên Chúa, đâu là giá trị đích thực của Đền thờ dành cho Thiên Chúa. “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc”. Đền thờ là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa chứ không phải là nơi buôn bán, nơi tìm kiếm lợi lộc, nơi tranh nhau dâng của lễ . . . Chúa Giêsu hành động như một sự thanh tẩy Đền thờ, trả về giá trị đích thực của Đền thờ. Tất cả vì tình yêu: yêu Cha trên trời, yêu con người nhân thế đang đi tìm kiếm và mong muốn gặp gỡ Thiên Chúa.
Thánh Augustinô đã nói: “Niềm hy vọng có hai nữ tì xinh đẹp: đó là sự phẫn nộ và lòng can đảm. Phẫn nộ để không làm những chuyện không được phép là, và can đảm để thực hiện những điều có thể làm được”. Như vậy, phẫn nộ đúng nơi, đúng lúc, đúng chuyện và đúng mực là một hành động của niềm hy vọng. Nó cũng giống như biết dùng sự can đảm của mình để thực hiện những điều tốt đẹp trong cuộc đời vậy. Tất cả sẽ làm nên niềm hy vọng cho cuộc đời và cho con người. Đây chính là những gì mà Chúa Giêsu đã làm.
“Đừng biến Nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Những nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái quá đề cao và chú trọng đến vấn đề le vật và nghi lễã. Họ cho phép buôn bán nơi hành lang dành cho dân ngoại ở Đền thờ cũng có ý tốt trong đó. Ý của họ là muốn cho mọi người đến Nhà Chúa đều có của lễ theo đúng như luật định. Nhưng vô tình, họ đã biến Đền thờ thành nơi buôn bán với đủ thứ những phức tạp xảy ra: trả giá, lo ó, bẩn thỉu, lửa gạt . . . Những giá trị thiêng liêng đã bị tục hoá, nhất là người ngoại không còn chỗ để cầu nguyện nữa vì nơi dành cho họ cầu nguyện đã bị biến thành chợ mất rồi. Đó là một sự bất công. Đền thờ không còn ý nghĩa là nơi cầu nguyện dành cho mọi dân tộc, mọi người nữa rồi.
Khi suy gẫm những điều này, có lẽ chúng ta thấy đây là những chuyện xa lạ đâu đâu, không ăn nhập gì đến chúng ta hết. Hay chúng ta cũng có thể nghĩ rằng: tôi đâu có đến nỗi nào làm những chuyện tệ hại nơi Nhà Chúa như vậy. Nhưng thật ra, đây cũng là chuyện của chính chúng ta hôm nay mà chúng ta rất cần để suy xét và kiểm điểm lại chính mình. Rất có thể, chúng ta cũng mang trong mình thái độ và tinh thần của những người lãnh đạo tôn giáo Do thái ngày xưa khi chúng ta đi Nhà thờ nhưng không nhằm mục đích thờ phượng Thiên Chúa nhưng chỉ để xin ơn: xin cho con được làm ăn suôn sẻ, xin cho con cái con thành đạt, xin cho con làm gì được nấy . . . Những điều này thật ra cũng không phải là xấu, nhưng nếu chúng ta chỉ đến với Chúa, chỉ còn siêng năng đi dự lễ vì những lý do đầy tính vật chất và ích kỷ như thế thì coi chừng, vô tình chúng ta đã biến Thiên Chúa thành phương tiện cho chúng ta thực hiện những mưu đồ ích kỷ và tham lam của chúng ta trong đời sống hằng ngày. Cũng có khi chúng ta xin lễ, dâng cúng Nhà thờ cái này cái nọ để bắt Chúa phải trả ơn cho chúng ta cả đời này lẫn đời sau luôn: “hòn đất ném đi thì hòn chì phải ném lại”. Hoá ra, những việc làm mang tính hy sinh và bác ái của chúng ta trở thành những tính toán mang đầy tính mau bán và đổi chác! Chúng ta cần xét mình lại để xem coi mình có đi lệch đường chăng thì mau quay trở lại để cho những việc làm đạo đức của chúng ta thật sự trở thành những của lễ thơm tho đẹp lòng Thiên Chúa, đúng với tinh thần thờ phượng mà Giáo hội chỉ dạy chúng ta.
Có một chuyện kể rằng: có một người phụ nữ đứng tuổi, làm nghề buôn lậu đã đến trước đài Thánh giá chuộc tội ở một nhà thờ nọ và dâng một đoá hoa Huệ to lắm. Chị ta cầu nguyện tha thiết trước tượng chuộc tội của Chúa những lời sau: “Lạy Chúa, xin cho con làm ăn suôn sẻ, đi Đông thì lọt Đông, đi Tây thì lọt Tây. Xin cho công an thuế vụ có mắt như mù, cái tai như điếc, có mồm như câm”. Chị cầu nguyện khéo ơi là khéo! Nhưng lời cầu nguyện của chị không biết Chúa có dám nghe không? Và dĩ nhiên là Chúa không thể làm theo những gì chị xin Chúa rồi. Vô tình, chị đã biến Chúa thành tay sai cho mình, thành phương tiện cho chị làm chuyện xấu. Nhưng liệu chị có hiểu, có biết điều đó không? Không khéo mai mốt, chị đi buôn mà bị bắt thì chị sẽ quay lại trách Chúa, rồi “nghỉ chơi” với Chúa luôn vì cho rằng Chúa còn không thương chị nữa!
Chúng ta cũng cần phải nhớ một điều rất quan trọng này nữa là: “thân xác của chúng ta là Đền thờ của Thiên Chúa”. Vậy, chúng ta đã biết dùng Đền thờ là thân xác chúng ta để tôn thờ Thiên Chúa, để gặp gỡ Thiên Chúa chưa? Hay chúng ta đang sử dụng thân xác của mình để làm những chuyện xấu, lỗi điều răn Thứ 6 của Chúa, lười biếng trong những chuyện đạo đức và chuyện bổn phận. Chúng ta có để cho lòng tham-sân-si thống trị mình hay không?
Chúng ta hãy tha thiết mời Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu thanh tẩy tâm hồn mình, để động lực thờ phượng Chúa của chúng ta qua việc đi tham dự thánh lễ, cầu nguyện, dâng cúng, bố thí . . . đem chúng ta lại gần Chúa hơn và mưu ích cho chúng ta hơn. Chúng ta cũng cần có tinh thần nhiệt tâm vì Nhà Chúa để biết can đảm đấu tranh chống lại những chuyện bất công và sai trái, bênh vực quyền lợi kẻ yếu thế, cô thân . . .để bảo vệ và làm mới tinh thần thờ phượng Thiên Chúa nơi Giáo xứ, nơi gia đình của chúng ta. Xin Chúa Giêsu luôn đồng hành và chúc phúc cho chúng ta trong hành trình sống đức tin và dõi bước theo Ngài. Amen
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY. NĂM B
Ga 2,13-25.
“ Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời” (Tv 30,6).
Gp. Vĩnh Long
Có một bài hát mà tôi không nhớ của nhạc sĩ nào có câu: “ Giận thì giận mà thương thì thương”. Đúng vậy, Có những cơn giận là ghét bỏ, là thù óan. Nhưng có những cơn giận đầy yêu thương. Có những cơn giận là tội, là một điều ác. Nhưng cũng có những cơn giận được coi là cơn giận thánh như cơn giận của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Aâm hôm nay.
Sau khi dự đám cưới ở Cana, Chúa Giêsu và các môn đệ đến Capharnaum và ở lại đó vài bữa. Rồi gần đến lễ Vượt Qua (vào khỏang giữa tháng tư Dương lịch), thì Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Đến Giêrusalem, Chúa giêsu thấy cảnh hỗn độn do có nhiều người mua bán chiên, bò và đổi tiền trong đền thờ. Chúa Giêsu liền lấy roi đánh đuổi họ, lật nhào bàn ghế của họ.
Có nhiều thắc mắc trong chuyện này!
Có phải Chúa Giêsu tỏ ra giận dữ, Chúa lấy roi đánh đuỗi, lật đổ bàn ghế của họ là tại vì Chúa căm ghét những người này không? Chắc chắn không phải như thế. Nếu Chúa Giêsu ghét họ thật sự, thì chỉ cần Chúa phán một lời, chỉ cần Chúa chỉ tay một cái là những người ngang ngược đó chết sạch, chẳng còn một móng sống sót, chết không tòan thây nữa là khác. Nhưng Chúa Giêsu đến trần gian là để cứu chữa, là để tìm kiếm những người tội lỗi để sửa dạy họ, để yêu thương họ như “ gà mẹ ủ ấp gà con dưới cánh”. Và vì phải sửa dạy, cho nên đôi lúc Chúa Giêsu phải dùng những biện pháp mạnh, cũng phải đánh đòn, cũng phải la rầy một chút.
Có những người dễ dạy, chỉ cần nói nhỏ nhẹ cũng nghe, cũng sửa đổi. Còn đối với một số người đặc biệt, thì Chúa Giêsu phải nghiêm khắc, họ mới chịu nghe lời.
Rồi tại sao Chúa Giêsu là Chúa mà còn tỏ ra giận dữ như vậy? Bởi vì Chúa Giêsu là Chúa nên Ngài mới có quyền giận như vậy đó. Còn chúng ta là những con người đầy yếu đuối, đầy những thiếu sót, đầy những lỗi lầm, đầy sự bất tòan cho nên chúng ta không có quyền tỏ ra giận dữ trước những lỗi lầm của người khác. Chúng ta không có quyền giận dữ trước những sai sót của anh em mình vì có lúc chính chúng ta cũng sai phạm như vậy.
Còn Đức Giêsu, Chúa của chúng ta, Ngài là Thiên Chúa tốt lành vô cùng, thánh thiện vô cùng, nhân từ vô cùng và cũng công bằng vô cùng.
Và rồi có người thắc mắc là tại sao Chúa Giêsu lại giận dữ, chẳng lẽ chỉ vì chuyện mua bán mất trật tự trong đền thờ? Có nhiều lý do, hôm nay chúng ta chỉ tìm hiểu hai lý do dễ hiểu nhất.
Lý do thứ nhất: Đền thờ Giêrusalem có nhiều khu vực. Khu bìa bên ngoài là khu dành cho dân ngoại.Vì lúc đó cũng có những người ngoại giáo đến cầu nguyện. Khu vực kế dành cho phụ nữ. Kế đó nữa là khu dành cho con cái Israel, và sâu hơn nữa là khu dành cho các tư tế.
Những người mua bán chiên bò và đổi tiền tại khu vực dành cho người ngọai giáo. Những người mua bán này làm cho nơi cầu nguyện của người ngoại trở nên hỗn loạn, không ai cầu nguyện được cả. Tiếng bò rống , chiên kêu, tiếng cãi cọ tranh giành, tiếng rao hàng inh oỉ ai mà cầu nguyện cho được.
Họ chẳng những không tạo điều kiện, không tìm dịp cho người ngoại, những người chưa biết Chúa tiếp xúc, gặp gỡ Thiên Chúa, mà trái lại, dường như họ còn muốn đuổi khéo người ngoại ra khỏi đền thờ. Một thái độ kỳ thị lạnh lùng, cái thái độ khép kín ích kỷ đó, một thái độ ham tiền ham lợi mà bất kể đến người khác như vậy đó đã xúc phạm đến con tim đầy yêu thương của Chúa Giêsu, làm sao Chúa Giêsu không nổi nóng với họ được.
Cái lý do thứ hai đã làm cho Chúa Giêsu tỏ ra giận dữ nữa đó là: Thông thường khi lên Giêrusalem vào những dịp lễ, thì người ta muốn dâng một hy lễ tạ ơn Thiên Chúa vì lý do nào đó. Mà theo luật, muốn dâng lễ thì phải có một con chiên, hoặc con bò, hoặc bồ câu để làm lễ vật. Và những con vật đó phải được kiểm tra, được xác nhận là không tỳ vết, mạnh khoẻ, không tật nguyền. Cho nên thường thì người ta phải mua trong đền thờ rồi dâng luôn cho tiện lợi. Thế nhưng, những con vật bán trong đền thờ thì giá mắc gấp mười lăm lần bên ngoài. Dù mắc nhưng họ cũng phải mua, vì đem những con vật ở ngoài vào thì thường bị từ chối. Thành thử, những người dù nghèo khổ cỡ nào đi nữa, mà muốn dâng lễ vật cho Thiên Chúa thì cũng phải chắt bóp để mua những con vật với cái giá thắt cổ, mắc gắp mười lăm lần bên ngoài. Một sự bốc lột trắng trợn, một sự bất công như thế cứ nhan nhản trước mắt, chúng ta biểu Chúa Giêsu làm thinh được không? Cái nhóm người Do Thái đó họ lợi dụng tôn giáo, lợi dụng danh thánh Chúa, lợi dụng nơi thờ phượng để làm tiền, để bóp cổ những người nghèo như vậy, mà Chúa Giêsu chỉ lấy roi đánh đuổi họ thôi là nhẹ tay lắm rồi đó.
Cả hai lý do trên cho ta thấy: Một mặt Chúa Giêsu rất coi trọng việc tôn thờ Thiên Chúa, Ngài muốn những người Do Thái đó và cả chúng ta ngày hôm nay nữa phải tôn thờ Thiên Chúa cho đúng đắn, “ đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Đây là điều mà Thiên Chúa đã dạy kỹ lưỡng trong ba điều đầu của Mười Điều Răn mà chúng ta vừa nghe sách Xuất Hành ghi lại. Mặc khác, cho thấy Chúa Giêsu muốn chúng ta phải có thái độ đúng đắn đối với nhau nhất là đối với những người đau khổ nghèo hèn. Điều này Thiên Chúa cũng đã dạy chúng ta trong bảy điều còn lại của Mười Điều Răn. Muốn lên thiên đàng thì hãy giữ Mười Điều Răn, và Mười Điều Răn chỉ gồm tóm trong hai điều: Mến Chúa và yêu người. Và cái mà để chứng tỏ cho người ta thấy là chúng ta yêu mến Thiên Chúa thiệt sự chính là thái độ bác ái, yêu thương của chúng ta đối với người khác, nhất là những người nghèo khó, bất hạnh. Vì yêu mến tha nhân chính là dấu hiệu của lòng yêu mến Thiên Chúa.
Ngày xưa, có lần Thiên Chúa nói với dân Israel: Cách ăn chay mà Ta ưa thích không phải là nhịn đói suốt ngày, không phải là đọc kinh cho thật nhiều, không phải là đọc kinh cho thật lớn, nhưng cách ăn chay mà Ta ưa thích là: Hãy chia cơm cho người đói, chia áo cho người rách rưới, giúp đỡ những người không cửa không nhà và đừng bao giờ ngoảnh mặt làm ngơ trước những người đau khổ, thiếu thốn. ( x. Ịs 8, 3-7).
Chúng ta đừng chỉ tôn kính Chúa Kitô trong nhà thờ mà khinh dể, xem thường Chúa Kitô nơi những người nghèo hèn ở đường phố. Vì Chúa Kitô trong Bí Tích Thánh Thể và Chúa Kitô nơi những người nghèo khổ là một thôi.
ĐỀN THỜ
Ga 2, 13 -25
Gp. Vĩnh Long
Truyện kể rằng có một cô gái xinh đẹp mặc áo trắng đến thăm một mỏ than và hỏi người thợ mỏ:
- Tôi có thể mặc đồ trắng xuống hầm mỏ không ?
- Được, không có gì ngăn cản cô mặc áo trắng xuống đó, nhưng điều đáng ngại là khi trở lại, áo cô không còn trắng nữa. Tôi thiết nghĩ cô đừng xuống, vì nơi này không hợp với bộ áo trắng của cô.
Tương tự, qua bài Tin Mừng hôm nay, những người buôn bán trong đền thờ bị Chúa Giêsu xua đuổi vì nơi họ bán chính là nơi thờ phượng, tôn nghiêm, chứ không phải là nơi cho họ buôn bán. Một chút nhìn lại phong tục Do Thái chúng ta biết rằng người Do thái hằng năm mừng lễ Vượt qua rất lớn, mọi người trong nước đều phải về đền thờ Giêrusalem để dự lễ, và luật buộc các tín hữu khi về dự lễ phải đóng thuế, và phải dâng vào đền thờ một lễ vật nào đó làm của lễ dâng lên Thiên Chúa. Vậy chung quanh đền thờ họ buôn bán những lễ vật, và khi buôn bán thì ồn ào như một cái chợ, và có những bàn đổi tiền để dân chúng dễ dàng đổi tiền để đóng thuế cho mau lẹ. Cho nên chung quanh đền thờ ồn ào và lộn xộn lắm, có người mua kẻ bán, người trả người thách, người khen người chê, người chưởi thề, người giành khách, rồi tiếng la rống của súc vật… nên khu vực đền thờ là một phiên chợ, chứ không phải là nơi yên tĩnh để cầu nguyện và tế lễ nữa.
Trước sự lộn xộn nơi đền thờ như thế, Chúa Giêsu đau xót và nổi giận “Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ” Chúa Giêsu nổi giận cũng chỉ nhằm muốn phục hồi lại một cung cách tôn nghiêm mà lâu nay đã bị biến mất nơi đền thờ.
1. Đền thờ vật chất
Tin mừng hôm nay thuật lại Đức Giêsu xua đuổi những người bán chiên bò, chim câu và những người đổi tiền ra khỏi Đền Thờ. Chắc chắn Người không hề xua đuổi những con người thành tâm thiện chí. Nhà thờ là nơi tôn nghiêm, qui tụ các tín hữu, cử hành phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, mọi người chung một niềm tin, một lời cầu tôn vinh Thiên Chúa. Nhà thờ chính là Hội thánh thu nhỏ, không phải là ngôi nhà kín cổng cao tường, trái lại phải mở rộng để đón tiếp mọi người. Tại đây không có buôn bán, không có đổi tiền, không có ồn ào lộn xộn… mà nhà thờ họ đạo chúng ta là một nơi trang nghiêm hằng ngày hằng tuần có đông người đến đây dự lễ, cầu nguyện, đọc kinh một cách thật sốt sắng. Nhà thờ của chúng ta hiện đang là một nơi thờ phượng trang nghiêm và đẹp lòng Chúa rồi đó, nhưng chúng ta cũng cần phải thanh tẩy, vì có khi chúng ta đã làm mất đi sự trang nghiêm nơi ngôi thánh đường này, như khi chúng ta đi lễ trễ mà đi về sớm, đi ngang ngó dọc…
2. Đền thờ tâm hồn
Đền thờ vật chất đã là nơi tôn nghiêm là nơi trong sạch, cần phải được thanh tẩy hàng ngày. Thì đền thờ thân xác còn quan trọng hơn vì nó chính là “Đền thờ của Chúa Thánh Thần”. Do đó, chúng ta cũng phải thanh tẩy đền thờ tâm hồn. Vì có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi, những cái xấu, những cái tiêu cực… đã chiếm chỗ của Chúa. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ những tội lỗi, những tính hư nết xấu, những ganh ghét, những thói ích kỷ, những giận hờn… và thay vào đó là những đoá hoa thơm của lòng yêu thương, bác ái, của những việc lành phúc đức… để từ đó, đền thờ tâm hồn chúng ta sẽ trở nên đẹp đẽ, xứng đáng cho Chúa ngự.
Lạy Chúa, xin cho con biết thanh tẩy tâm hồn mình bằng cách từ bỏ những tính hư nết xấu trở thành nơi xứng đáng cho Chúa ngự. Amen
CHÚA NHẬT 3 MC B
Ga 2, 13 -25
Gp. Vĩnh Long
Đối với người Do Thái, đền thờ là trung tâm tôn giáo của dân tộc, vừa cụ thể hóa sự hiện diện uy nghiêm của Thiên Chúa vừa chính thức hóa việc phụng tự của cả dân tộc, bởi đó, đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà cầu nguyện cho muôn dân, và không ngừng mang tính chất linh thiêng thánh thiện. Nhưng dần đà người ta đã ngang nhiên biến một phần của nơi thánh thiện ấy thành nơi buôn bán và trao đổi tiền bạc, dĩ nhiên với lý do tốt đẹp bên ngoài là để phục vụ việc tế tự. Quang cảnh ấy đã làm Chúa Giêsu khó chịu, nổi giận, Ngài yêu cầu mọi người trả lại cho đền thờ sự thánh thiêng phải có.
Bài Tin Mừng kể lại việc Chúa Giêsu xua đuổi những người buôn bán và trao đổi tiền bạc ở đền thờ Giêrusalem, hành động này của Chúa được gọi là hành động thanh tẩy đền thờ, nhưng làm cho giới lãnh đạo Do Thái giáo khó chịu và hạch hỏi Chúa, nhân cơ hội này Chúa dạy bảo cho họ biết một điều rất quan trọng về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Từ khi lên 12 tuổi và suốt thời gian ẩn dật, hàng năm Chúa Giêsu đều lên đền thờ Giêrusalem dự lễ tại sao Ngài không đuổi những người buôn bán trong đền thờ mà lại làm bây giờ, khi sắp kết thúc cuộc đời trần gian của Ngài ? Và bây giờ Ngài vào nhà Thiên Chúa không phải với tư cách một người hành hương nhưng với tư thế của một Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa, Ngài vào đó và chính thức can thiệp với tư cách quản lý và chủ nhân. Dĩ nhiên trong những lần hành hương trước, chắc chắn Chúa Giêsu đã lấy làm chướng tai gai mắt cái cảnh buôn bán, biến nơi cầu nguyện thành chợ búa, ồn ào, thành hang trộm cướp, bây giờ chính thức la?nh lấy trách nhiệm chu toàn công việc của Chúa Cha, Ngài phải chấm dứt ngay cảnh lộn xộn đó. Lòng nhiệt thành khiến Ngài thanh tẩy đền thờ, Ngài không sợ nguy hiểm khi phải ra tay dẹp loạn hầu thể hiện thánh ý Chúa Cha là đền thờ phải là nơi tôn nghiêm, thánh thiện.
Hành động thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu chắc chắn làm cho các trưởng tế khó chịu, bực tức, họ cho Ngài là một kẻ phản động, vì Ngài không có chức tư tế, cũng chẳng có nhiệm vụ nào trong đền thờ. Chúa Giêsu đã kết án cách tổ chức của các trưởng tế và gán cho mình một uy quyền trên họ, Ngài bãi bỏ việc phụng tự do Thiên Chúa thiết lập, và còn gán cho mình có quyền bằng Thiên Chúa, Đấng mà Ngài gọi là Cha, nếu vậy thì phải làm một phép lạ từ trời, nghĩa là từ Thiên Chúa để làm bằng chứng, vậy Chúa Giêsu đa? làm phép lạ nào ?
Chúa trả lời : “Cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Các người Do Thái đã nghĩ ngay đến đền thờ bằng gạch đá, nhưng Chúa Giêsu không có ý nói đến đền thờ bằng gạch đá mà là đền thờ thân thể Ngài. Nghe Chúa nói thế, các trưởng tế tỏ vẻ khó chịu ra mặt, họ biết đền thờ đã được vua Hêrôđê sửa sang, xây dựng mất 46 năm mới xong, thế mà bây giờ Chúa bảo phá hủy đi và xây dựng lại chỉ trong ba ngày, họ không tin lời Chúa nói mà còn cho là Chúa phạm thượng, nên khi Chúa bị đưa ra tòa xét xử, họ đa? đưa điều này ra để tố cáo Chúa. Thật ra ở đây Chúa muốn báo trước cho mọi người biết : Ngài sẽ bị giết chết nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại, Ngài dùng đền thờ làm hình ảnh để nói về thân thể Ngài là đền thờ đích thực của Thiên Chúa, lời tiên báo của Chúa đã xảy ra đúng như vậy.
Mọi người chúng ta đều là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị. Chúa muốn chúng ta sống hiên ngang như đền thờ Giêrusalem, Chúa muốn chúng ta sống tự do độc lập hoàn toàn với tội , bởi vì phạm bất cứ tội nào, có tính hư tật xấu nào, mắc một đam mê nào là chúng ta làm nô lệ cho những thứ đó, như Chúa Giêsu đa? nói : “Ai phạm tội là nô lệ cho tội”. Muốn độc lập với tội chúng ta phải đến với Chúa Giêsu, ăn năn sám hối, xin Chúa tha thứ, để được sống trong tự do của con cái Chúa.
NHIỆT TÂM
Ga 2, 13 -25
Gp. Vĩnh Long
“Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: vì nhiệt tâm lo nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”. (Ga 2,17)
Một cha xứ nọ lên nhà thờ thông báo với giáo dân, mái ngói nhà thờ đã dột nhiều, rồi ngài mời gọi sự cộng tác của tất cả để khắc phục tình trạng hư dột này. Sau đó ít ngày có một giáo dân mang đến cho cha hai cái xô với tâm nguyện là để góp phần khắc phục mái nhà thờ bị dột.
“Cha chung không ai khóc” là tình trạng của nhiều gia đình, nhiều xứ đạo. Việc này làm cho nhiều cộng đoàn vốn đã không phát triển lại càng ì ạch hơn. Đã thế nhiều vị không làm việc gì mà việc gì cũng xen vào khiến cho những người có nhiệt tâm không khỏi cảnh “mất lửa”.
Chúa nhật III Mùa Chay này, Đức Giêsu mang đến cho chúng ta một tinh thần phụng sự nhà Chúa thật hăng say và quyết liệt.
Ngài lên đền thờ Giêrusalem và tận mắt chứng kiến cảnh người mua kẻ bán rộn ràng trong đền thờ. Thử tưởng tượng một nơi trang nghiêm, xứng đáng cho việc thờ phượng Thiên Chúa giờ trở thành một cái chợ. Suốt ngày ì xèo bởi tiếng rao hàng, tiếng mặc cả và chắc chắn có cả những tiếng cải vả vì sự bất thuận giữa những bên mua bán. Ở đây còn chưa kể những ô uế cho cảnh quang cho đền thờ bởi những hàng hóa, rác thảy của một phiên chợ. Thật là chẳng còn thể thống gì. Một nơi để phụng thờ Thiên Chúa lại nhếch nhác như vậy làm sao không khiến người ta đau lòng. Và càng đau lòng hơn với những người có lòng với Thiên Chúa như Đức Giêsu đây.
Và Ngài đã phải hành động để trả lại cho đền thờ những gì vốn là của đền thờ. Ngài lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên, bò ra khỏi đền thờ, lật tung bàn ghế tiền bạc của những người đổi tiền. Ngài thẳng thắng tuyên bố: “Đừng biến nhà Ta thành nơi buôn bán”.
Đây là lần duy nhất Đức Giêsu nóng giận, rất nóng giận, cũng là lần duy nhất Ngài dùng đến sức mạnh thể lý trong việc giải quyết một vấn đề. Điều này càng chứng tỏ việc cần thiết phải thanh tẩy đền thờ. Và khi vấn đề bảo vệ những gì thuộc về Giáo hội, cụ thể là giáo xứ của mỗi địa phương trở nên cấp thiết thì ngay sức mạnh thể lý cũng phải được khéo léo vận dụng. Nghĩa là trong tất cả những gì có thể thì chúng ta không được bỏ qua.
Nhà thờ giáo xứ chúng ta cũng rất cần được bão vệ, gìn giữ, tái thiết để nơi đó luôn xứng đáng cho những việc phụng thờ của cộng đoàn. Nhiều người nói tới “phụ” nhà thờ thì tam thập lục kế tẩu vi là thượng sách. Dửng dưng đến lạnh lùng. Nhưng quyền lợi phát xuất từ nhà thờ thì cò kè khen ít chê nhiều. Ấy thế, khi có hữu sự thì thắc mắc ra chiều như người ta đồi xử thiếu công bình với mình. Bao giờ chúng ta bỏ được cái thói ích kỷ như thế để góp phần vì lợi ích chung? Qua đó, chúng ta cũng thể hiện được lòng tin và tình yêu đối với Thiên Chúa và với cộng đoàn.
Nhà thờ là bộ mặt của cả một họ đạo. Có thể ngôi nhà thờ của chúng ta không khang trang bề thế, hay đó chỉ là ngôi nhà lá cũ kỷ ngoài mưa trong ngập nước. Nhưng cho dẫu thế nào thì Thiên Chúa vẫn không đòi hỏi. Việc Ngài cần là chúng ta có xem đó là ngôi nhà chung để chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa và với nhau hay không? Nơi đó có là nơi biểu hiện của tình yêu vượt lên trên những tính toán, nghi kỵ, hơn thua?
THANH TẨY ÐỀN THỜ
Ga 2, 13 -25
Gp. Vĩnh Long
Ðền thờ Giêrusalem là nơi thờ phượng Vua Cả Trời Đất. Đền thờ đã bị chiến tranh tàn phá nhiều lần. Đến năm thứ 18 triều vua Hêrôđê mới bắt đầu xây dựng lại, đến lúc Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ là năm thứ 46 kể từ ngày khởi công. Người Do thái đã đổ rất nhiều công sức cho đền thờ lộng lẫy, khang trang với mục đích sâu xa là để làm nơi xứng đáng cho Chúa ngự và để các dân nước biết tôn vinh phụng thờ Ngài.
Tuy nhiên, trong những ngày lễ lớn này, người Do thái lại làm tục hóa đền thờ, làm mất khung cảnh trang nghiêm vì cái chợ buôn bán chiên bò và trao đổi tiền bạc. Chúa Giêsu với tư cách là chủ nhân của đền thờ đến dẹp đi những gì bất xứng với nơi thờ phượng Chúa Cha. Ngài hất tung bàn ghế của những người đổi bạc, chắp dây thừng làm roi xua đuổi tất cả những người buôn bán ra khỏi đền thờ. Qua hành động này, Ngài làm trọn lời Chúa Cha nói qua miệng ngôn sứ Giacaria : ngày ấy sẽ không còn phường lái buôn trong đền thờ của Giavê nữa ( Dcr 14,1). Chúa Giêsu đã làm một hành động dứt khóat để trả lại sự trong sạch cho đền thờ, bất chấp những hiểm nguy có thể hại đến tính mạng của Ngài. Chúa Giêsu còn nói cho họ biết lý do Ngài đuổi họ: “đừng biến nhà Cha Ta thành hang trộm cướp”. Thật ra, nơi buôn bán này là sân duy nhất người ngoại quốc được đặt chân tới. Truyền thống dạy phải giữ thái độ cung kính ở đây. Ví dụ: phải tránh đi ngang qua chỉ vì muốn tiện đường. Nhưng vào những ngày áp lễ vượt qua thì các tư tế lại cho con buôn vào buôn bán ồn ào! Chúa Giêsu vì lòng nhiệt thành với nhà Cha đã phản ứng mạnh mẽ , khiến những kẻ buôn bán giải tán hết và đền thờ được trả lại sự trang nghiêm.
Qua hành động này, Chúa giêsu đã dạy, không chỉ cho người Do thái mà còn cho chúng ta hiểu giá trị của đền thờ, nơi thờ phượng Thiên Chúa chí tôn. Mỗi lần đi đến nhà thờ, con người phải ý thức mình đang tiến đến nhà Chúa ngự, với tâm tình kính sợ phải lẽ chứ không phải đến vì luật buộc hoặc vì thói quen. Chúng ta đến nhà thờ với lòng kính mến Chúa thì không thể ngồi ở ngoài. Chúng ta không thể đến nhà thăm cha mẹ ông bà mà cứ ngồi ở ngoài hè, đến lúc dọn tiệc mới vào cách miễn cưỡng! chúng ta là con cái thảo hiếu hãy hăng hái vào nhà và hiện diện chân tình bên ông bà cha mẹ của mình. Luật Giáo hội không nói hễ đến nhà thờ là phải vô liền nhưng nếu chúng ta có lòng mến Chúa thì chúng ta biết phải làm gì khi đến nhà thờ: đến cám ơn, nói với Chúa những chuyện vui buồn, sướng khổ để Chúa ủi an nâng đỡ, ban ơn, soi sáng cho.
Việc Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ còn nhắc chúng ta rằng: mỗi người chúng ta là đền thờ Chúa ngự. Vậy để xứng đáng cho Chúa ngự trong lòng mình, trong mùa chay này, chúng ta hãy thanh tẩy cõi lòng, từ bỏ nhửng thói hư tật xấu để xứng đáng đón mừng lễ Chúa Phục Sinh Chúng ta hãy thay đổi cuộc sống, thanh tẩy lòng mình và giữ mình khỏi những đam mê, tội lỗi, giận hờn, ghen ghét, ươn lười và tập tâm tình bao dung, bác ái, hiền hòa, phục vụ.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con tẩy trừ những vấn vương tội lỗi, những đam mê bất chính để lòng luôn tự do hướng về Chúa và sống thanh sạch, xứng đáng là nơi Chúa ngự luôn mãi. Amen
Gp. Vĩnh Long
TÌM HIỂU
TỘI VÀ XƯNG TỘI
Mùa Chay là thời thích hợp để nói về tội và xưng tội.
Lm Nguyễn Hồng Giáo.
Sợ tội.
Hiện nay ở Việt Nam chính quyền đang tập trung lập lại trật tự giao thông trên đường. Khác với những chiến dịch lửa rơm quen thuộc, lần này xem ra cảnh sát giao thông rất quyết tâm làm đến nơi đến chốn với những biện pháp xử phạt thật gắt gao. Giáo dục ý thức tôn trọng luật pháp với những chiến dịch ra quân rầm rộ hay với những chương trình về an toàn giao thông trên các phương tiện truyền thông đại chúng và ở nhà trường xem ra ít có hiệu quả, nhưng kể từ khi người lái xe vi phạm luật, dù nặng dù nhẹ, đều bị phạt và thường phạt nặng bằng tiền, bằng giam xe hoặc tịch thu xe và tịch thu bằng lái, thì người ta mới biết sợ và bắt đầu tôn trọng luật lệ giao thông.
Tôi nghĩ tới câu giáo lý đã học thời còn nhỏ về hai cách ăn năn tội : ăn năn tội cách trọn là vì lòng yêu mến Chúa mà lo buồn chê ghét tội lỗi đã phạm tới Người, còn ăn năn tội cách chẳng trọn là lo buồn chê ghét tội vì tội làm cho mình đáng bị hình phạt hỏa ngục. Một đàng vì Chúa, một đàng vì mình. Tuy chưa hoàn hảo, nhưng sợ tội, ghét tội vì sợ hình phạt cũng là một điều tốt, có giá trị giáo dục. Cũng như sợ bị phạt mà tuân hành luật giao thông đã là bước đầu có thể đưa tới việc hình thành một ý thức tôn trọng luật lệ vì công ích (mà chính mình cũng được hưởng). Đây mới là mục tiêu phải nhắm tới, còn nếu chỉ vì sợ phạt thì nay mai một khi không còn cảnh sát kiểm tra gắt gao nữa, tình hình vô trật tự lại tái diễn mà thôi ! Ngày xưa, người công giáo chúng ta thường được nghe đọc cuốn sách Gương Tội kể lại những hình phạt khủng khiếp mà người có tội phải chịu. Mục đích cuốn sách là để giúp ta thêm lòng sợ tội và tránh phạm tội. Thời đó, các linh mục giảng dạy, nhất là trong các tuần đại phúc Mùa Chay, thường tận dụng những câu chuyện như thế để đánh động giáo dân. Một việc làm hữu ích dựa vào thực tế nhưng nếu dừng lại ở đó, người ta sẽ tạo ra một loại Kitô hữu non nớt, chỉ “giữ đạo” vì sợ hãi. Một con vật bị đánh nhiều lần vì làm một điều bị chủ cấm, sẽ biết sợ và tránh tái phạm nhưng nó không bao giờ vươn tới một ý thức về tội lỗi. Trong giáo lý công giáo, tội không phải chỉ là vi phạm một mệnh lệnh, (tự nó vốn là một điều vô tri vô giác), nhưng tội là phạm tới chính Thiên Chúa là Đấng ra lệnh, và Người ban hành mệnh lệnh vì lợi ích của chính con người.
Trong ý thức đó, thánh Lu-y vua nước Pháp đã dạy con : ”Con ơi, con phải giữ mình, tránh xa mọi điều con biết là mất lòng Thiên Chúa, nghĩa là tránh xa mọi tội trọng. Thà cam lòng chịu mọi loại khổ hình còn hơn là phạm một tội trọng”. Sợ tội như thế mới là chính đáng.
Tội là một thứ bệnh.
Trong Tân Ước, tội thường được ví như một căn bệnh. Bệnh tật tượng trưng cho tình trạng mà con người tội lỗi đã rơi vào : họ mù loà, bị câm, bị điếc, bị bại liệt … về mặt tinh thần. Bệnh làm hại sức khỏe thể xác thế nào thì tội cũng đi ngược với sức khỏe tâm hồn như vậy. Vì thế, việc chữa bệnh mà Chúa Giêsu thực hiện cũng là một dấu chỉ về hành động cứu độ của Người : Người phục hồi sức khoẻ tinh thần cho con người, tái lập tình trạng nguyên tuyền “thiêng liêng” cho họ như Thiên Chúa đã muốn từ thuở đầu. Chúa Giêsu đến trần gian như vị lương y của tội nhân (x. Mc 2,17)
Tự nhiên ai cũng sợ bệnh tật vì ai cũng muốn sống khỏe mạnh cả. Hiện nay đang có một bệnh dịch viêm phổi do vi-rut lạ xuất hiện tại một số nước, khiến cho cả thế giới quan tâm. Ở Hà Nội, bệnh này đã được khống chế và không lây lan ra cộng đồng. Khi bệnh mới được phát hiện, quần chúng lo sợ, tranh nhau đi mua khẩu trang. Tôi nghĩ, (theo logic Kitô giáo) đáng lý chúng ta phải sợ tội hơn sợ bệnh, dù là bệnh nan y vì linh hồn cao quý hơn thể xác, sự sống vĩnh cữu cao quý hơn sự sống tạm thời. Nhưng thực tế thường không đi theo logic.
Cũng giống như bệnh tật, tội có thứ quen thứ lạ, thứ cũ thứ mới. Sở dĩ có tội mới là vì hoàn cảnh sống thay đổi hoặc vì ý thức đạo đức con người trở nên tinh tế hơn. Công Đồng Vatican II trong Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng nêu lên một thí dụ rất hợp thời : “…Có người lại coi nhẹ một số luật lệ trong đời sống xã hội, chẳng hạn những luật lệ liên quan tới việc bảo vệ sức khỏe, hoặc việc lưu thông xe cộ, bởi vì họ không nhận thức rằng do bất cẩn như thế sẽ gây nguy hiểm cho tính mạng của họ và của những người khác” (số 30).Thế nhưng chắc các linh mục ngồi toà giải tội chưa hề nghe ai xưng tội lái xe ẩu gây tai nạn cho kẻ khác (?). Cũng chắc chưa có giáo dân nào xưng tội phá hoại môi trường chẳng hạn. Như Công Đồng nhận định, bản xét mình của nhiều người công giáo vẫn loay hoay trong phạm vi của một nền “luân lý cá nhân chủ nghĩa”, ít quan tâm tới phạm vi luân lý xã hội.
Sợ đi khám bệnh.
Không ít người sợ bệnh nhưng cũng rất sợ đi khám bệnh. Họ nói khám bệnh sẽ “lòi” ra “đủ thứ”. Nghĩa là họ sợ bệnh nhưng không muốn nghe nói tới bệnh, không muốn đương đầu với thực tế đáng lo ấy, trừ ra khi bệnh tật đã phát ra hiển nhiên, không thể tránh được nữa. Có khi họ nghi mình đã mắc bệnh nhưng chẳng thà “ém nhẹm” nó trong mình, nửa tối nửa sáng còn hơn là công khai nhìn nhận mình có bệnh, nhất là bệnh nan y ! Một sự bình an giả dối !
Cũng thế, nhiều người rất sợ “xét mình”, nghĩa là hồi tâm nhìn vào đời sống mình cách nghiêm túc, lấy Lời Chúa soi rọi vào tâm hồn mình vì sợ Lời Chúa cật vấn mình, phê phán mình, đòi mình phải hoán cải. Họ càng sợ xưng tội hơn. Họ nghĩ bụng : Chưa chết đâu, đợi đến lúc nguy ngập rồi sẽ hay… Đôi khi không hẳn vì họ thiếu đức tin hay vì bê bối, nhưng đơn giản vì một vấn đề tâm lý khó vượt qua, nhất là đối với người đàn ông. Mùa Chay thay vì mang lại cho họ niềm vui được đổi mới thì lại làm cho họ thêm khổ tâm. Trong mục vụ, thiết tưởng các linh mục nên giúp những người như thế dễ đến với Bí tích Hòa giải hơn nhờ thái độ cởi mở, hòa nhã, tế nhị, hiểu biết tâm lý, thế nào cho họ cảm thấy được lòng thương xót của Chúa đối với tội nhân. Linh mục phải là lương y hơn là quan tòa. Tại sao ngày xưa người tội lỗi thích đến với Chúa Giêsu còn tội nhân ngày nay nhiều lúc lại sợ Giáo Hội, sợ linh mục đến thế ? Không nên trả lời quá mau, quá dễ dàng. Mùa Chay không phải chỉ được lập ra cho giáo dân mà thôi nhưng cho tất cả mọi người môn đệ Chúa Giêsu.
Lm Nguyễn Hồng Giáo.
ĂN CHAY VÀ ĂN MẶN
Lm. Anphong Trần Đức Phương
Trong những ngày này, người Công giáo đang sống trong những ngày gọi là "Mùa Chay". Mùa Chay kéo dài 40 ngày, bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro. Mùa Chay là mùa hy sinh hãm mình, thanh tẩy tâm hồn, canh tân đời sống để chuẩn bị tâm hồn kỷ niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu Kitô và mừng Đại Lễ Phục Sinh.
Chữ "CHAY" nơi đây hiểu theo một nghĩa hơi khác với ý niệm "CHAY" của một số tôn giáo khác. Như bên Phật giáo, chữ "CHAY" có nghĩa là "không ăn thịt", chỉ ăn rau, hoa trái. "Chay trường" là kiêng ăn thịt suốt đời, hoặc trong một thời gian lâu dài; hoặc ăn chay theo ngày như 'mùng một và ngày rằm". Vì thế có danh từ "ĂN CHAY" và "ĂN MẶN". Có những trường phái hoặc những người chủ trương "ăn chay" (vegetarian) để chữa bịnh, hoặc để tu luyện, như những tu sĩ nam nữ trong các dòng khổ tu Công giáo, như "Châu Sơn", "Phước Sơn", dòng tu Camêlô.v.v…
Chữ "chay" bên Công giáo hiểu là "ăn ít đi", ngày ăn chay là ngày chỉ ăn một bữa chính và một bữa ăn nhẹ, và không ăn "vặt" giữa các bữa ăn, trừ những vị đã già nua, hoặc những người bệnh tật. Còn "kiêng thịt" mới là ngày không ăn thịt. Ngày xưa, người Công giáo không ăn thịt ngày Thứ Sáu suốt năm để kỷ niệm ngày Chúa Giêsu chịu chết trên Thập tự giá để chuộc tội nhân loại. Bây giờ chỉ còn "Kiêng thịt ngày Thứ sáu trong Mùa Chay". Tuy nhiên nhiều người vẫn kiêng thịt ngày Thứ Sáu quanh năm, có người kiêng thịt ngày Thứ Sáu và ngày Thứ Tư trong tuần.
Trong Mùa Chay, người Công giáo chỉ buộc vừa ăn chay (chỉ buộc những người từ 18 tuổi đến 59 tuổi), vừa kiêng thịt (chỉ buộc những người từ 14 tuổi trở lên), trong hai ngày là ngày "Thứ Tư Lễ Tro" (ngày mở đầu Mùa Chay Thánh) và ngày "Thứ Sáu Tuần Thánh" (ngày đặc biệt kỷ niệm của cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu). Những người đau ốm hoặc quá già nua tuổi tác thì không phải giữ những lề luật trên đây.
Như vậy so với các tôn giáo bạn, thì lề luật "ăn chay", "kiêng thịt" của Giáo hội Công giáo rất là nhẹ nhàng. Lý do, vì Giáo hội coi các lề luật, kể cả đi dâng lễ ngày Chúa Nhật, chỉ là nhưng "hướng dẫn cụ thể" để mọi người tùy theo hoàn cảnh, tuổi tác tự làm lấy những công việc đó một cách tự nguyện do đức tin chân thành và lòng yêu mến Chúa, chứ không chỉ làm vì sợ tội, sợ hình phạt. Giống như những người con hy sinh thời giờ đến thăm cha mẹ, hoặc giữ những lời chỉ bảo của cha mẹ, vì lòng hiếu thảo, yêu mến cha mẹ, chứ không chỉ vì sợ cha mẹ la mắng, hoặc cha mẹ ghét bỏ. Đó là thái độ "sống đạo trưởng thành", với tấm lòng, với tình yêu thương, chứ không phải chỉ vì sợ tội. Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của con người. Hơn nữa, Mùa Chay không phải chỉ gồm có ăn chay, kiêng thịt, mà quan trọng ở chỗ "hy sinh hãm mình", tập luyện ý chí để tự kiểm soát con người của mình (self-control) không bị "danh, lợi, thú" điều khiển cuộc đời của mình.
Như vậy Mùa Chay là thời gian đặc biệt để mọi người tự thanh luyện con người của mình, làm mới lại con người của mình. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần giúp đỡ để canh tân đời sống. Thực ra đó là những điều mỗi người chúng ta đều phải làm hàng ngày để cải thiện con người của mình, để mỗi ngày trở nên tốt hơn, mới hơn (tân nhật tân); hôm nay phải cố gắng để "mới hơn hôm qua". Đó là một cuộc hành trình đức tin để tiến lên gần Thiên Chúa là Đấng Chân Thiện Mỹ… Mỗi ngày chúng ta tiến gần cái chết hơn, đến gần nấm mồ của chúng ta hơn, và cũng là tiến gần đến với Chúa hơn. Con đường sống đạo là con đường đi lên, vươn lên mãi mãi.
Một cách cụ thể, trong Mùa Chay, mỗi người thường được nhắc nhở phải cầu nguyện nhiều hơn, ăn chay hãm mình nhiều hơn; nhưng phải đưa đến hiệu quả là "sống bác ái, vị tha" hơn, qua các công việc từ thiện, giúp đỡ những người nghèo khó trên thế giới, thường được gọi là "làm phúc, bố thí". Danh từ "bố thí" bây giờ không còn được dùng; vì làm việc từ thiện là một "chia sẻ" trong tình nhân loại, chứ không phải là việc "bố thí" ban phát của người giàu cho người nghèo.
Trong Mùa Chay, mọi người đều được nhắc nhở đọc và suy ngẫm và đưa vào thực hành hàng ngày, những đoạn Kinh Thánh trong sách Cựu Ước cũng như Tân Ước nói đến tinh thần Công bằng, Bác ái.
Trong Cựu Ước Tiên Tri Isaia nhắc nhở: "Việc ăn chay mà Thiên Chúa muốn, đó là: Mở xiềng xích trói buộc cho người bị áp bức, đem tự do cho người bị đàn áp, phá tan gông cùm xiềng xích bất công. Cho người đói ăn; tìm nơi trú trọ cho người không nhà cửa; đem áo mặc cho người trần trụi…" (Isaia 58,6…). Tiên tri Ezechiel kêu gọi: "Không áp bức người ta, trả lại của cải cho người cầm cố ; không gian lận của người khác; cho người đói ăn; cho người trần trụi áo mặc. Không cho vay để lấy lời nặng, không gây oan khiên…" (Ezekiel 18,7…). Trong sách Thứ Luật, có đoạn viết: "Anh em đừng cứng lòng, đừng khép lòng với người thiếu thốn; nhưng hãy rộng tay giúp đỡ họ trong cơn túng cực…(Sách Thứ luật 15,7…); hoặc: "Hãy lắng nghe những lời than van của đồng loại; hãy công bằng trong việc xét xử cho cả hai bên, dù một bên là ngoại kiều. Khi xét xử, đừng nể vị , hãy lắng nghe người bình dân cũng như người quyền thế" (Thứ Luật 1,16…). Sách Cách ngôn viết: "Đừng bóc lột người nghèo khổ vì họ nghèo khổ; đừng áp bức những người yếu thế nơi xử án… (Cách ngôn 22.22…). Đặc biệt, Tiên tri Giêrêmia viết: "Hãy thi hành sự công minh, chính trực; hãy giải thoát người bị áp bức; đừng ngược đãi, hành hung những người ngoại kiều, kẻ mồ côi, người góa bụa. Không được đổ máu những người vô tội… (Giêrêmia 22, 3…).
Kinh Thánh Tân Ước càng nhấn mạnh rõ ràng hơn về việc thực hành đức tin qua việc tôn trọng phép công bằng và lòng thương, giúp đỡ mọi người, nhất là những người gặp cảnh khó khăn thiếu thốn. Thánh Gioan viết: "Thiên Chúa thì chưa có ai nhìn thấy bao giờ; nhưng nếu chúng ta thương yêu nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới được hoàn hảo…" (1Gioan 4,12…). "Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở trong người đó được? Anh em thân mến, anh em đừng yêu thương nhau trên đầu môi, chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm!" (1Gioan3, 17…). Thánh Giacôbê viết: "Thưa anh em, anh em nói mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích gì? Đức tin có thể cứu rỗi người đó được chăng? Giá như có người anh em nào không có áo che thân, không đủ ăn hàng ngày, mà anh em nói: Hãy đi bình an, mặc cho ấm, và ăn cho no, nhưng lại không cho họ những thứ họ đang cần, thì nào có ích gì? Đức tin không hành động là đức tin chết!" (Thư Giacôbê 2,14…). Chỗ khác Thánh Giacôbê viết: "Anh em đã tin vào Chúa Kitô thì đừng đối xử thiên tư. Giả như có một người bước vào dự cuộc hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời một người nghèo khó cũng vào, ăn mặc tồi tàn, mà anh em kính cẩn nhìn ngừơi ăn mặc lộng lẫy và nói: xin mời ông vào ngồi chỗ danh dự này; còn với ngừơi nghèo anh em lại nói: Đứng đó! Hoặc : Ngồi dưới chân tôi đây này! Như vậy là anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và là những kẻ đối xử bất công đầy tà tâm đó sao!" (Thư Giacôbê 2:1…).
Chúa Giêsu khi xuống thế làm người, Ngài đã sinh ra trong gia đình nghèo khó, sống cuộc đời nghèo khó (Con cáo có hang, con chim có tổ, con người không có chổ dựa đầu! ), và khi đi rao giảng Tin mừng tình thương, Ngài đã luôn đến với người nghèo khó, bịnh hoạn, phong cùi, để an ủi và chữa lành cho họ. Ngài đã nói nhiều dụ ngôn để kêu gọi mỗi tín hữu hãy biết thương yêu giúp đỡ người nghèo; như trong dụ ngôn "Người nhà giàu và ông Lagiarô nghèo khó": Người giàu có ăn mặc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Trong khi ông Lagiarô thì nghèo khó, mụn nhọt đầy mình, nằm ở cổng người nhà giàu, thèm được ăn những mảnh vụn từ bàn ăn của người nhà giàu rớt xuống mà ăn cho đỡ đói; nhưng chẳng ai cho. Cuối cùng thì ông Lagiarô chết và người nhà giàu cũng chết. Nhưng số phận hai người sau cái chết khác hẳn nhau. Ông Lagiarô được hưởng cuộc sống hạnh phúc nước trời; còn người nhà giàu phải chịu cảnh khốn khổ! (Phúc Âm Luca 16, 19…).
Mỗi người chúng ta đều phải chết, dù giàu, dù nghèo, và khi chết chúng ta đều trở về cát bụi, không mang theo chút của cải gì. Những gì chúng ta có thể mang theo để dâng lên Chúa đó là những gì chúng ta làm cho người lâm cảnh cùng khốn. Trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta đi dâng lễ rất đông, và chúng ta đều lên chịu xức tro trên trán và nghe ca đoàn hát rất cảm động: "Hởi người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro…".
Ngày phán xét cuối cùng Thiên Chúa sẽ xét xử chúng ta theo những việc chúng ta đã làm cho Chúa qua việc giúp đỡ những người nghèo khó, bịnh hoạn… Trong câu chuyện "Ngày phán xét chung", Thiên Chúa nói với những người tốt lành, từ tâm: "Các con hãy vào hưởng hạnh phúc Nước Trời, vì xưa Cha đói các con đã cho Cha ăn, Cha khát đã cho Cha uống, Cha bịnh hoạn các con đã viếng thăm… Khi chúng con làm những điều đó cho anh em là chúng con đã làm cho chính Cha!.." (Phúc Âm Mathêu 25, 31…).
Chính những đoạn Kinh Thánh trên đã thúc đẩy nhiều linh mục, tu sĩ, cũng như các tín hữu đã hy sinh thời giờ, tiền của, cũng như cả cuộc đời để lo giúp đỡ người nghèo khó trên thế giới, phục vụ người đau ốm, săn sóc những bệnh nhân trong các trại phong cùi như ở Việt Nam trước đây và cả hiện nay.
Công việc bác ái, từ thiện là việc chúng ta phải làm suốt năm, suốt đời. Nhưng đặc biệt trong Mùa Chay, chúng ta càng cần đọc và suy ngẫm Lời Chúa để đem vào thực hành trong đời sống, để âm thầm phục vụ tha nhân trong khiêm tốn với cả lòng thương người phát từ lòng chân thành của chúng ta qua tác động của Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần tự hỏi: Tôi đã làm gì để giúp đỡ Chúa qua những người cần được giúp đỡ?
Một cách thực tế chúng ta thử đặt vấn đề: Trong tủ áo của tôi có biết bao quần áo đắt tiền quý giá, nhiều khi mặc một lần rồi bỏ đó; trong khi trên thế giới có bao người không đủ quần áo để mặc cho ấm vào những ngày thời tiết lạnh giá!
Chúng ta có bao đôi giày mắc tiền, chỉ đi một lần rồi bỏ; trong khi trên thế giới có nhiều người nghèo, không có giày dép để đi.
Chúng ta ăn uống quá đầy đủ và bỏ đi bao đồ ăn dư thừa; trong khi nhiều người không có một bữa ăn no cho mình và cho con cái.
Lương tâm một con người lương thiện, một Kitô hữu không thể không đặt những vấn đề như vậy! Thực tế, đã có nhiều người đã đặt vấn đề, và đã rộng tay giúp đỡ các công cuộc từ thiện của Giáo hội, nhờ thế hội từ thiện của Giáo hội, thường được gọi là "Caritas" (Bác-Ái)quốc tế, cũng như ở Hoa Kỳ hàng năm, nhất là vào Mùa Chay, đã nhận được nhiều tiền của để giúp các công cuộc từ thiện, các chương trình xã hội trên toàn thế giới.
Xin Chúa Thánh Thần canh tân đời sống chúng ta trong Mùa Chay Thánh này, để chúng ta cũng được "sống lại" với Chúa trong cuộc sống mới, rộng mở tâm hồn để cùng chung tay xây dựng hòa bình, sự thịnh vượng và phát triển trên tòan thế giới, và chúng ta được thấy cuộc đời chúng ta thật tốt đẹp, thật hạnh phúc và giàu ý nghĩa.
"Ăn Chay" hay "Ăn Mặn" là tùy sự lựa chọn và hoàn cảnh sống của mỗi người; tuy nhiên, "Đời đáng sống hay không đáng sống!" "Đời chúng ta có hạnh phúc hay không?" là tùy thái độ sống của chúng ta và lòng từ tâm quảng đại của chúng ta!
Lm. Anphong Trần Đức Phương