Giáo dục và linh đạo môi sinh học [202-215]
I. Nhắm đến một lối sống mới [203-208]
II. Giáo dục về liên minh giữa nhân loại và môi trường [209-215]
III. Hoán cải môi sinh học [216-232]
IV. Vui mừng và hòa bình [222-227]
V. Tình yêu dân sự và chính trị [228-232]
VI. Các dấu chỉ bí tích và nghỉ lễ [233-237]
VII. Chúa Ba Ngôi và tương quan giữa các thụ tạo [238-240]
VIII. Nữ Vương toàn thể thụ tạo [241-242]
IX. Đi xa hơn mặt trời [243-246]
Kinh nguyện cho trái đất của chúng ta
Kinh nguyện Kitô giáo với thụ tạo
GIÁO DỤC VÀ LINH ĐẠO MÔI SINH
202. Nhiều điều phải được định hướng lại, nhưng trước tiên nhân loại phải tự thay đổi. Cần có một ý thức về nguồn gốc chung, một sự thuộc về nhau cách hỗ tương và một tương lai được chia sẻ cho mọi người. Ý thức căn bản này cho phép có một sự phát triển những xác tín mới, cách thức liên hệ và hình thức cuộc sống. Đây chính là thách thức lớn về mặt văn hoá, tinh thần và giáo dục, sẽ kéo dài trong một tiến trình tái sinh thật khó khăn.
I. HƯỚNG ĐẾN MỘT LỐI SỐNG KHÁC
203. Thị trường luôn luôn hướng đến việc tạo ra một bộ máy tiêu thụ không thể đảo ngược lại được, để các sản phẩm cuối cùng nhấn chìm con người vào trong một vòng xoáy mua và sử dụng phung phí cách vô ích. Chủ thuyết tiêu thụ cách bệnh hoạn là phản ảnh chủ quan của thực dụng kinh tế – kỹ thuật. Romano Guasdini đã báo trước về vấn đề này: con người “chấp nhận các vật dụng và cách sống như dự án hợp lý và sản phẩm quy định do máy móc áp đặt cho họ, và họ thực hiện toàn bộ với cảm giác như thế là hợp lý và đúng đắn [144]. Sự thực dụng khiến người ta tin tưởng rằng mình hoàn toàn tự do, bao lâu họ có được sự tự do tiêu thụ; nhưng trong thực tế chỉ có một số nhỏ có được sự tự do, đó là những người có quyền lực về kinh tế và tài chính. Trong sự mơ hồ này, nhân loại thời hậu hiện đại đã không tìm được sự tự ý thức giúp họ định hướng và cảm nghiệm sự thiếu sót về căn tính với lo âu. Chúng ta có quá nhiều phương tiện cho một vài mục tiêu hạn hẹp và nhỏ bé.
204. Hoàn cảnh hiện tại của thế giới “tạo một cảm giác thiếu xác tín và bất an, đưa đến những hình thức ích kỷ tập thể [145]. Khi con người tự kỷ và tự nhốt mình vào ý thức của riêng mình, họ sẽ không được thoả mãn. Khi trái tim con người trống rỗng, sẽ cần rất nhiều thứ để mua, để chiếm hữu và để tiêu thụ. Trong tình trạng này, thật không thể nào một người lại cho rằng thực tại đã đặt ranh giới cho họ. Trong vòng suy nghĩ này cũng không thể có công ích thực sự. Nếu mẫu người như thế đứng đầu một cộng đoàn, các luật lệ chỉ có thể tôn trọng trong chừng mực không đi ngược lại nhu cầu của họ. Vì thế, chúng ta không những nghĩ đến khả năng những hiện tượng khủng khiếp của khí hậu hoặc những tai hoạ tự nhiên lớn lao, nhưng cả những tai hoạ do các cơn khủng hoảng xã hội, vì định kiến về một lối sống tiêu thụ như thế – nhất là, khi chỉ có một nhóm nhỏ sống như vậy – chỉ gây nên bạo lực và tự phá hoại nhau.
205. Dù vậy, không phải tất cả đều bị đánh mất, vì con người có đủ khả năng để tự hạ mình đến mức cuối, cũng có thể vượt lên trên, quyết định cho điều thiện và tự cải hoá mình cho tốt hơn, loại bỏ tất cả những điều kiện tinh thần và xã hội đang đè nén họ. Họ có khả năng, tự khẳng định mình một cách trân trọng, cởi bỏ những điều chán ngấy và quyết định con đường mới đến sự tự do đích thực. Không có hệ thống nào có thể tiêu diệt triệt để việc khai mở cho điều thiện, chân lý và vẻ đẹp, cũng như khả năng thích ứng. Khả năng này đã có sẵn vì chính Thiên Chúa, từ sâu thẳm của con tim con người, đã động viên chúng ta. Tôi xin mỗi người trong thế giới này, đừng bao giờ quên phẩm giá của mình ; không ai có quyền rút đi phẩm giá này được.
206. Một cuộc thay đổi lối sống có thể đưa đến việc thực hiện một áp lực thanh thoát trên những người nắm lấy quyền lực chính trị, kinh tế và xã hội. Điều này xảy ra khi phong trào những người tiêu thụ sẽ không mua một số sản phẩm và trở nên hữu hiệu hơn để sửa sai thái độ của doanh nghiệp, khi ép buộc họ phải suy nghĩ về tác động đến môi trường và các mẫu sản xuất. Đó là một thực tế, khi thói quen xã hội ảnh hưởng trên thu nhập việc kinh doanh, buộc họ phải thay đổi cách sản xuất. Điều này nhắc chúng ta nhớ về trách nhiệm của người tiêu thụ. “Việc mua không những là một hành động kinh tế, nhưng vẫn luôn là một hành động luân lý [146]. Vì thế, “đề tài ô nhiễm môi trường đòi buộc thái độ của từng người trong chúng ta phải chịu trách nhiệm” [147].
207. Hiến chương Trái Đất [die Erd-Charta – la Charte de la Terre] mời gọi tất cả mọi người chúng ta quay lưng lại với giai đoạn tự tàn phá mình và bắt đầu một bước tiến mới, nhưng chúng ta chưa triển khai ý thức phổ quát, đó là điều tạo khả năng cho chúng ta để thực hiện. Vì thế, tôi xin đề nghị lại lời đòi buộc đầy giá trị này: “Như chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử nhân loại, định mệnh chung mời gọi chúng ta can đảm tìm một khởi đầu mới […] Hãy để cho thời đại tạo dáng cho chúng ta, để người ta sẽ nhớ thời gian này là một thời đánh thức sự tôn trọng mới mẽ trước cuộc sống, như một thời gian quyết định vững vàng đạt tới sự lâu dài, như một thời gian thúc đẩy tiến đến công bằng và bình an, và như một thời gian cử hành thật hạnh phúc của cuộc sống [148].
208. Vẫn luôn luôn có khả năng để bước ra khỏi con người của mình để đến với kẻ khác. Nếu không có khả năng này, người ta không thể nhận ra giá trị đặc thù của những thụ tạo khác, và cũng không chú tâm làm một điều gì đó cho kẻ khác, cũng như không có khả năng để tự xác định ranh giới để tránh đau khổ hay gây hại cho xung quanh. Thái độ cơ bản để vươn ra khỏi mình, khi phá vỡ sự cô độc trong ý thức và chỉ quy về mình, là nguồn gốc để tâm đến kẻ khác và môi trường. Thái độ này đem đến các phản ứng luân lý, để nhận ra tác động và từng quyết định cá nhân bước ra khỏi bản thân mình. Khi chúng ta có khả năng vượt qua chủ nghĩa cá nhân, bấy giờ mới có thể tự triển khai một lối sống và một sự thay đổi mang đầy ý nghĩa trong xã hội.
II. GIÁO DỤC CHO MỘT SỰ LIÊN KẾT GIỮA NHÂN LOẠI VÀ MÔI TRƯỜNG
209. Ý thức về sự trầm trọng cơn khủng hoảng văn hoá và môi sinh nổi bật trong những thói quen mới. Nhiều người biết rằng, sự phát triển hiện tại và việc thu thập đơn thuần các đối tượng và tiêu dùng vẫn chưa đủ, để có thể đem lại ý nghĩa cho tâm hồn con người và ban niềm vui cho họ, nhưng họ cảm thấy không có khả năng từ chối điều mà thị trường mời mọc họ. Trong nhiều đất nước, cần phải đưa ra những thay đổi mới về thói quen tiêu thụ, giới trẻ có cảm nhận mới về sinh thái và tinh thần quảng đại, một vài người trong số họ phấn đấu một cách đáng kinh ngạc cho việc bảo vệ môi trường, nhưng vì họ lớn lên trong một hoàn cảnh tiêu thụ và thoải mái, thật cũng khó để phát triển những thói quen khác. Vì thế, chúng ta đứng trước một thách thức về giáo dục.
210. Việc giáo dục về môi trường đã phổ biến mục tiêu của mình. Nền giáo dục này khởi đầu bằng cách đưa ra những thông tin khoa học, cũng như cảm nhận và ý thức về những nguy cơ cho môi trường, sau đó mới đưa ra lời phê bình về những “huyền thoại” dựa trên lý trí cơ chế của thời đại (chủ nghĩa cá nhân, phát triển không định hướng, cạnh tranh, chủ nghĩa tiêu thụ, thị trường không luật lệ) và triển khai các bình diện khác nhau về sự cân bằng sinh thái: bình diện nội tại với chính mình, bình diện liên đới với những người khác, bình diện tự nhiên với các sinh vật và bình diện tinh thần với Thiên Chúa. Việc giáo dục môi trường chuẩn bị cho chúng ta một bước tiến vào mầu nhiệm, từ đó đạt được ý nghĩa sâu xa của luân lý môi sinh. Mặt khác, các nhà giáo dục có khả năng theo lối giáo dục của mình cho thấy một nền luân lý mới về môi sinh, giúp làm nổi bật tình liên đới, trách nhiệm và cùng cảm nhận sự quan tâm chung.
211. Dù vậy, giáo dục này cố tạo ra một thứ “công dân sinh thái”, nhưng đôi khi bị ngăn chặn thông tin và không đạt được việc phát triển những thói quen. Sự hiện hữu các lề luật và luật lệ với một thời gian dài không thể ngăn chặn các thái độ xấu, cho dù đã có một sự kiểm soát hữu hiệu. Để cho các luật lệ pháp lý đưa ra những hiệu quả quan trọng và lâu dài, cần có nhiều thành phần trong xã hội chấp nhận nhờ vào những động lực thích hợp, và khởi động từ một sự thay đổi cá nhân. Chỉ từ việc vung đắp những nhân đức vững vàng mà việc tự ban tặng chính mình trong sự dấn thân sinh thái mới có thể được. Nếu một người có thói quen mặc ấm thay vì đốt lò sưởi, vì tình hình tài chính cho phép, họ tiêu thụ và sử dụng phung phí, điều này cho thấy họ đã đón nhận những xác tín và ý nghĩa cho việc bảo vệ môi trường. Chu toàn bổn phận bảo vệ sáng tạo nhờ vào những hành động nho nhỏ trong ngày, thật là tốt đẹp và thật bất ngờ, khi sự giáo dục có khả năng tạo nên những điều tốt đẹp này, đến việc tạo một lối sống thật thích hợp. Việc giáo dục giúp nhận trách nhiệm với môi trường đòi buộc nhiều thái độ liên hệ có ảnh hưởng trực tiếp và mang ý nghĩa cho việc bảo vệ môi trường, cũng như việc tránh sử dụng các vật có chất liệu nhựa hoá chất và giấy, tiết kiệm nước, phân loại các rác thải, cũng như nấu nướng vừa đủ cho bữa ăn, chú tâm lo lắng cho cách sống của những người khác, sử dụng các phương tiện lưu thông công cộng hoặc xe ôtô với nhiều người, trồng cây, tắt đèn khi không sử dụng. Tất cả những điều này đều là những hành động quảng đại và xứng đáng, sẽ đem đến điều tốt đẹp cho hữu thể con người. Hành động sử dụng lại một cái gì đó thay gì quăng đi, có thể là một hành động tình yêu làm nổi bật phẩm giá của chúng ta.
212. Đừng nghĩ rằng những cố gắng này sẽ làm thay đổi thế giới. Những hành động này gieo rắc trong xã hội một điều thiện hảo, sẽ luôn luôn mang lại nhiều hoa trái vượt lên trên điều người ta nhận ra được, chỉ vì chúng gây nên trên trái đất này một điều thiện hảo đôi khi không nhận ra. Ngoài ra, việc triển khai các thái độ này mang lại cho chúng ta cảm nghiệm về chính phẩm giá của chúng ta, sẽ hướng chúng ta vào điểm sâu thẳm nhất của cuộc sống và cho chúng ta kinh nghiệm để thấy cuộc sống thật có giá trị trên trái đất này.
213. Những lãnh vực phổ biến giáo dục này rất khác nhau: trường học, gia đình, các phương tiện thông tin, các lớp giáo lý và nhiều lãnh vực khác. Một sự giáo dục tốt ở trường học khi các em còn bé sẽ gieo được nhiều hạt giống sản sinh những hiệu quả trong suốt cuộc đời. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh đến ý nghĩa quan trọng của gia đình, chỉ vì “đó là nơi mà cuộc sống là hồng ân của Thiên Chúa được đón nhận một cách thích hợp và được che chở khỏi những tấn công mà cuộc sống phải đối mặt và là nơi có thể triển khai những đòi hỏi thích đáng cho một việc lớn dậy thật nhân bản. Chống lại thứ văn hoá của sự chết, gia đình là cái nôi cho văn hoá sự sống [149] Trong gia đình, người ta giúp phát triển những thói quen đầu tiên của tình yêu và chăm sóc cho cuộc sống, tỉ như việc sử dụng đúng đắn các vật dụng, trật tự và vệ sinh cho cuộc sống, chú ý đến hệ thống môi sinh địa phương và bảo vệ tất cả sinh vật đã được sáng tạo. Gia đình là nơi giáo dục trọn vẹn, nơi những giai đoạn khác nhau của một sự trưởng thành cá nhân được diễn ra, liên kết chặt chẽ với mọi người. Trong gia đình, người ta học hỏi để biết xin phép, để không xúc phạm đến kẻ khác, tiếng nói “cám ơn” như sự biểu lộ một sự đánh giá đúng đắn điều mà chúng ta lãnh nhận, làm chủ sự tấn công và bạo lực, và học biết xin lỗi, khi chúng ta gây một điều gì tai hại. Những hành động nhỏ bé này sẽ giúp chúng ta lễ phép, một thứ văn hoá của đời sống chung và sự tôn trọng với tất cả những gì xung quanh chúng ta.
214. Trách nhiệm của chính trị và các tổ chức khác là phải chú tâm đến cảm nghiệm của dân chúng. Giáo Hội cũng phải nhận trách nhiệm này. Tất cả các cộng đoàn Kitô hữu cũng phải chu toàn vai trò quan trọng trong việc giáo dục này. Tôi cũng hy vọng trong các đại chủng viện, các nơi đào tạo của các dòng tu, người ta giáo dục sự khắc khổ có trách nhiệm, một sự chiêm ngắm với lòng biết ơn cả thế giới và chú tâm đến những sự yếu đuối của người nghèo và của môi trường. Không những các tổ chức có quyền lực cần thiết để phê chuẩn chống lại những tấn công vào môi trường, những cũng cần thiết để chính chúng ta cũng kiểm soát mình và giáo dục nhau.
215. Trong hoàn cảnh này, “không thể quên liên hệ giữa việc đào tạo về vẻ đẹp với việc gìn giữ môi trường lành mạnh” [150]. Chú ý và yêu mến vẻ đẹp sẽ giúp chúng ta vượt qua chủ nghĩa thực dụng. Khi một người không học biết tự dừng lại để quan sát và đánh giá điều gì là tốt đẹp, thì không lấy làm lạ gì khi tất cả đối với người đó trở thành đối tượng để sử dụng và lạm dụng mà không chút ngại ngùng. Đồng thời, nếu người ta muốn nhắm đến việc thay đổi sâu xa, phải thấy cách suy nghĩ ảnh hưởng thực sự đến các thái độ. Việc giáo dục sẽ không có hiệu quả và những cố gắng sẽ vô ích, nếu như không chú tâm phổ biến một hình ảnh mới mẽ về con người, về cuộc sống, về xã hội và sự liên hệ với thiên nhiên. Mặt khác, mô mẫu nhằm vào việc tiêu thụ do phương tiện truyền thông và mạng lưới thị trường đầy hiệu quả vẫn tiếp tục.
216. Gia sản phong phú của linh đạo Kitô giáo, xuất phát hai ngàn năm nay từ kinh nghiệm cá nhân đến cộng đoàn, mang đến một sự đóng góp tốt đẹp cho sự cố gắng canh tân nhân loại. Tôi muốn đề nghị với các Kitô hữu một vài hướng căn bản cho một linh đạo môi sinh, xuất phát từ xác tín niềm tin của chúng ta, vì những gì Tin Mừng dạy đều có hệ luận đến cách thức suy tư, cảm nhận và cách sống của chúng ta. Đây không nhắm trình bày các ý tưởng, nhưng trước nhất, về nền tảng chuyển động xuất phát từ linh đạo đòi buộc sự khổ tâm chăm sóc môi trường. Vì không thể dấn thân trong những việc lớn với các lời giảng dạy mà không có một thứ “huyền nhiệm” tràn đầy trong tâm hồn chúng ta, không có “những nền tảng lay chuyển nội tâm” để khởi động, thúc đẩy, động viên và trao ban cho nó một ý nghĩa [151]. Phải nhận ra, chúng ta là các Kitô hữu, có một sự phong phú do Thiên Chúa ban cho Giáo Hội, nhưng chúng ta không thường đón nhận và tiếp tục triển khai – một sự phong phú, trong đó linh đạo dạy tách biệt khỏi thể xác, nhưng không tách biệt khỏi thiên nhiên hoặc là các thực tại của thế giới này, nhờ đó và trong đó được phát huy, trong cộng đoàn với tất cả những gì bao quanh chúng ta.
217. Nếu thực sự “các sa mạc bên ngoài gia tăng, chỉ vì sa mạc nội tâm cũng lớn dần [152] thì cơn khủng hoảng môi trường là một lời kêu gọi sự sám hối nội tâm sâu thẳm. Chúng ta phải công nhận rằng, có một số Kitô hữu dấn thân và cầu nguyện, thường cười cợt các cảnh cáo về môi trường với lời xin lỗi của chủ nghĩa thực tế và chủ nghĩa thực dụng. Một số khác thụ động, quyết tâm không thay đổi các thói quen và trở thành rời rạc. Họ thiếu một sự sám hối thuộc sinh thái, giúp thấy những gì họ gặp gỡ với thế giới xung quanh; điều xuất phát từ sự gặp gỡ với Đức Giêsu Kitô, sẽ giúp cho tất cả nở hoa. Sống ơn gọi là một người bảo vệ cho công trình của Thiên Chúa là một phần tất yếu của một hiện sinh đạo đức; đó không phải là điều gì của định kiến, cũng không phải là một phương diện thứ yếu trong kinh nghiệm Kitô giáo.
218. Chúng ta nhớ lại gương của Thánh Phanxicô thành Assisi, để đề nghị một mối tương quan lành mạnh với sáng tạo như chiều kích một cuộc sám hối trọn vẹn của con người. Điều này cũng đưa tới việc nhận thực những sai lầm, tội lỗi, tật xấu hoặc chễnh mãn và sám hối với trọn tâm hồn, thay đổi nội tâm. Các Đức Giám Mục Úc Châu đã nói rõ sự sám hối trong ý nghĩa hoà giải với sáng tạo: “Để thực hiện sự sám hối này, chúng ta phải biết khảo nghiệm lại đời sống của chúng ta và nhận ra rằng, với cách thức nào chúng ta đã làm tổn thương sáng tạo của Thiên Chúa, bằng hành động cũng như vì sự bất lực của chúng ta. Chúng ta phải có một kinh nghiệm về sám hối, về một sự thay đổi tâm hồn” [153].
219. Dù vậy, để giải quyết một hoàn cảnh quá đa dạng có thể đối mặt với thế giới ngày nay, thật sự không đủ để từng người tự hoàn thiện. Từng cá nhân đơn độc có thể đánh mất khả năng và sự tự do của mình, để vượt qua lý luận của lý trí máy móc, để rồi cuối cùng trôi theo chủ thuyết tiêu thụ, không có chút luân lý và không có tí cảm nghiệm về xã hội cũng như môi trường. Đối với những vấn đề xã hội, phải hoạt động trong mạng lưới tập thể, chứ không phải bằng một tổng hợp đơn thuần tài sản tích cực của cá nhân. “Những đòi hỏi của công tác này thật bao la, không thể giải quyết bằng những khả năng dấn thân của cá nhân và sự cộng tác của nhiều người dựa theo nguyên tắc cá vị. Cần có một tổng hợp sức lực và sự thống nhất hướng dẫn” [154]. Sự sám hối mang tính chất sinh thái đòi buộc phải có một sự năng động để thay đổi, đó là một sự sám hối tập thể.
220. Việc sám hối này giả thiết đưa ra nhiều thái độ khác nhau, nối kết chung với nhau để đưa đến một sự dấn thân bảo vệ môi trường cách quảng đại và đầy yêu thương. Bước đầu tiên, nó đòi hỏi sự biết ơn và nhưng không, có nghĩa là nhận thức thế giới là một ân huệ được lãnh nhận từ tình yêu của Cha. Tiếp đến, người ta phải thực tập sự từ bỏ, không chờ sự đáp trả, và hành động thật quảng đại, cả khi không ai nhìn thấy và công nhận: “Đừng cho tay trái biết việc tay phải làm […] Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,3-4). Việc sám hối này cũng đòi buộc một ý thức tràn đầy tình yêu, không tách rời với những thụ tạo khác, nhưng tạo một cộng đồng có giá trị bao trùm tất cả những hữu thể hiện hữu trong vũ trụ. Người tin không nhìn ngắm thế giới từ bên ngoài, nhưng từ trong nội tâm và nhận ra dây liên kết mà qua đó Cha trên trời nối kết chúng ta với tất cả hữu thể. Ngoài ra, việc sám hối sinh thái gợi lên những khả năng đặc biệt mà Thiên Chúa ban cho họ, sẽ giúp họ triển khai sức sáng tạo của mình và gia tăng sự thanh thoát để giải quyết các bi kịch của thế giới và chính họ “sẽ mang đến cho Thiên Chúa một lễ vật sống động và thánh thiện, làm Chúa vui lòng” (Rm 12,1). Họ hiểu việc vượt trổi của họ không phải là cớ để tạo vinh quang cá nhân hoặc là cớ để thống trị một cách vô trách nhiệm, nhưng là một khả năng khác, đặt ra cho mình trách nhiệm nặng nề, xuất phát từ niềm tin của mình.
221. Nhiều xác tín của niềm tin chúng ta đã được trình bày từ ngay đầu thông điệp – cũng như ý thức rằng, mỗi thụ tạo đều phản ánh một điều gì đó của Thiên Chúa và có một sứ điệp có thể dạy dỗ chúng ta hoặc là ý thức rằng Đức Kitô đã đón nhận thế giới vật chất này và hiện tại Người là Đấng Phục Sinh đang cư ngụ trong thâm sâu của từng hữu thể và đã ôm lấy chúng bằng lòng từ ái của Người, cũng như thấm nhập ánh sáng của Người vào trong chúng ; và cũng như xác tín: Thiên Chúa đã sáng tạo thế giới và đã đặt trong chúng một trật tự và một năng động mà con người không có quyền quên đi. Khi có ai đọc trong Tin Mừng việc Chúa Giêsu nói về các con chim và xác nhận rằng, “Thiên Chúa không quên sót con nào” (Lc 12,6) hỏi rằng người đó có còn khả năng hành xử xấu hay gây tai hại cho chúng được không? Tôi mời gọi tất cả các Kitô hữu làm rõ nét sự sám hối, khi cho phép sức mạnh và ánh sáng của ân sủng đã được lãnh nhận trải rộng trên mọi tương quan với tất cả thụ tạo khác và với cả thế giới xung quanh, và gợi lên tình huynh đệ với toàn thể sáng tạo mà Thánh Phanxicô đã sống một cách rạng rỡ.
222. Linh đạo Kitô giáo đề nghị một cách hiểu khác về phẩm chất cuộc sống và động viên một cách sống mang tính ngôn sứ và chiêm niệm, có khả năng vui mừng cách sâu xa mà không bị đè nén bởi tiêu thụ. Điều này quan trọng khi lấy lại một lời dạy cổ xưa có trong các truyền thống tôn giáo khác nhau và ngay cả trong Kinh Thánh. Lời này nói về việc xác tín “ít lại hoá nhiều” [weniger mehr ist – moins est plus]. Việc luôn luôn chất đống các đối tượng tiêu thụ sẽ hướng trái tim đi xuống và ngăn cản việc đánh giá từng đối tượng và từng giây phút. Ngược lại, sự kiện mình luôn luôn hiện diện trước một thực tại, cho dù nó rất nhỏ, cũng mở cho chúng ta nhiều khả năng để hiểu biết và triển nở chính cá nhân mình. Linh đạo Kitô giáo đề nghị một sự phát triển nhờ sự điều độ và một khả năng vui với số ít. Đó là việc trở về với sự đơn sơ, cho phép chúng ta dừng lại để đánh giá điều thật nhỏ, để cám ơn các khả năng mà cuộc sống ban cho, mà chúng ta không phải bị trói buộc vào điều chúng ta có và cũng không buồn vì điều chúng ta không chiếm hữu. Điều này giả thiết phải tránh sự năng động muốn làm chủ và gia tăng niềm vui.
223. Sự điều độ, nếu được sống với tự do và ý thức, sẽ mang tính chất giải phóng. Điều này không có nghĩa là sống ít hơn, cũng không có nghĩa là mức độ thấp kém của cuộc sống, nhưng ngược lại ; vì trong thực tế, những người sống nhiều hơn trong từng giây phút và sống tốt hơn, sẽ chấm dứt việc tìm tòi liên lỉ theo những đối tượng mà họ chưa có và khi tìm kiếm như thế, họ có khả năng phá vỡ những nhu cầu ít cần thiết và thu ngắn sự mệt mỏi lại và ít bị hành hạ. Người ta có thể sống với ít điều cần thiết, nhất là khi có khả năng xác định những thú vui khác; người ta có thể thoả mãn trong những cuộc gặp gỡ huynh đệ, trong phục vụ, trong việc triển khai những đặc sủng của chính mình, trong âm nhạc và nghệ thuật, trong việc liên hệ với thiên nhiên, trong cầu nguyện. Hạnh phúc đòi buộc chúng ta phải biết thu hẹp lại một số nhu cầu của chúng ta, và như thế, chúng ta có thể sẵn sàng cho nhiều khả năng do cuộc sống đem đến.
224. Điều độ và khiêm tốn đã không được đánh giá cao trong thế kỷ cuối cùng này. Nhưng khi chễnh mãn thực tập một nhân đức trong đời sống cá nhân hoặc trong cộng đoàn, sẽ đưa đến việc mất thăng bằng, kể cả mất thăng bằng với môi trường. Như thế không đủ để chỉ trình bày về sự toàn vẹn của hệ thống môi sinh. Người ta phải can đảm để nói về sự toàn vẹn của sự sống con người, về sự cần thiết phải có tất cả những giá trị lớn lao và liên kết với nhau. Việc biến mất đức khiêm nhường nơi một con người, thoả mãn vô cùng về khả năng làm chủ tất cả không có một ranh giới nào, cuối cùng chỉ có thể gây tác hại cho xã hội và môi trường. Không dễ để phát triển sự khiêm nhường lành mạnh và sự điều độ vui vẻ, khi chúng ta cảm thấy mình làm chủ lấy mình, khi chúng ta loại Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời chúng ta, và cái tôi của chúng ta sẽ nắm lấy vị trí của Người, nếu chúng ta tin rằng chúng ta chính là chủ thể có quyền xác định điều gì lành điều gì dữ.
225. Mặt khác, không ai có thể thoả mãn trong một sự điều độ, nếu họ không tìm được bình an nơi chính mình. Một sự hiểu biết đúng đắn về linh đạo một phần nằm ở chỗ phải triển khai ý niệm về sự bình an, điều này còn hơn là sự vắng bóng chiến tranh. Bình an nội tâm của con người có nhiều vấn đề trong việc chăm sóc môi sinh và công ích, chỉ vì, khi sống một cách đích thực, sẽ phản ảnh trong một lối sống thăng bằng, liên kết với khả năng kinh ngạc, sẽ đưa cuộc sống vào trong thâm sâu. Thiên nhiên chứa chất đầy lời của tình yêu. Nhưng làm thế nào chúng ta có thể lắng nghe giữa những tiếng ồn ào liên tục, trong sự lo ra thường xuyên đầy âu lo hoặc trong thờ phượng những hình ảnh bên ngoài? Nhiều người cảm thấy một sự mất quân bình sâu xa thúc đẩy họ làm nhiều việc một cách vội vã, cảm thấy bận rộn, trong việc đảo lộn tất cả những gì xung quanh. Đó là thái độ họ xử sự với môi trường. Một khoa sinh thái đầy đủ đòi hỏi phải có thời gian để tìm lại được sự đồng cảm với sáng tạo, để chiêm ngắm Đấng Sáng Tạo, Đấng đang sống giữa chúng ta và xung quanh chúng ta; sự hiện diện của Người “không phải chúng ta đặt ra, nhưng phải khám phá và biểu lộ ra bên ngoài” [155].
226. Chúng ta nói về thái độ của trái tim đang sống với tất cả, trong một sự chú tâm trọn vẹn, điều này có nghĩa là hiện diện hoàn toàn trước một người khác mà không nghĩ về điều gì sẽ đến. Người đó hoàn toàn sống mỗi giây phút như một quà tăng của Thiên Chúa, cần phải sống tràn đầy và trọn vẹn. Đức Giêsu dạy chúng ta thái độ này khi Người mời chúng ta ngắm xem hoa cỏ ngoài đồng và các con chim trời, hoặc khi đối diện với một người đang lo lắng, và yêu thương họ (x. Mc 10,21). Vâng, Người hoàn toàn hiện diện đối với từng người cũng như với từng thụ tạo, và như thế, Người cho chúng ta thấy con đường để vượt qua sự lo lắng bệnh hoạn, làm cho chúng ta hời hợt, nổi nóng và thành người tiêu thụ không chút xấu hổ.
227. Dừng lại để cảm tạ Thiên Chúa trước và sau bữa ăn là biểu hiện của thái độ này. Tôi đề nghị với các Kitô hữu, hãy canh tân thói quen tốt đẹp này và sống thật sâu xa. Giây phút chúc lành, dù rất ngắn, gợi nhớ cho chúng ta, chúng ta lệ thuộc vào Thiên Chúa với tất cả cuộc đời, điều này nâng đỡ cảm nghiệm biết ơn vì những quà tặng của sáng tạo, nhận ra những người đã lao nhọc cho các tặng phẩm này và củng cố tình liên đới với những người đang thiếu thốn.
V. TÌNH YÊU TRÊN BÌNH DIỆN XÃ HỘI VÀ CHÍNH TRỊ
228. Việc chăm sóc thiên nhiên là thành phần của một cách sống, đưa đến khả năng cùng chung sống với mọi người và trở thành cộng đoàn. Đức Giêsu nhắc nhớ chúng ta, Thiên Chúa là Cha chung của mọi người và điều này đã khiến tất cả chúng ta trở thành anh em, chị em với nhau. Tình liên đới phải là nhưng không và không ai phải trả giá cho điều kẻ khác thực hiện, cũng không phải một tiên liệu mà chúng ta mong chờ nơi người ấy. Vì thế, chúng ta mới có khả năng yêu mến kẻ thù. Chính tính chất nhưng không này dẫn chúng ta đến việc yêu mến đối với ngọn gió, mặt trời và các áng mây, và chấp nhận, vì chúng không nằm trong sự kiểm soát của chúng ta. Vì thế chúng ta mới có thể nói đến một tình huynh đệ phổ quát.
229. Phải ý thức rằng chúng ta cần đến nhau; chúng ta phải có trách nhiệm đối với kẻ khác và với thế giới; thật hữu ích nếu chúng ta lương thiện và tốt lành. Đã có một thời gian dài chúng ta sống sa đoạ về mặt luân lý, chúng ta cười chê đạo đức, niềm tin và lương thiện ; đã đến lúc sự hời hợt bề ngoài không giúp ích gì cho chúng ta. Việc tàn phá bất cứ nền tảng nào của đời sống cộng đoàn, cuối cùng cũng đưa đến sự chống đối người này với người kia, mỗi người tự tìm để bảo vệ những lợi ích cho riêng mình ; từ thái độ đó đưa đến những hình thức bạo lực và độc ác, ngăn cản sự phát triển một nền văn hoá đích thực để bảo vệ môi trường.
230. Gương của Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux mời gọi chúng ta thực hiện con đường nhỏ của tình yêu, đừng đánh mất cơ hội để nói một lời dễ thương, một nụ cười, bất cứ một cử chỉ nhỏ bé nào tạo bình an và tình bạn. Một khoa sinh thái trọn vẹn cũng được thực hiện từ những cử chỉ đơn sơ hằng ngày, qua đó chúng ta phá vỡ lý luận của bạo lực, tận dụng và ích kỷ. Trong khi đó, thế giới tiêu thụ cách điên khùng cũng là thế giới trong đó cuộc sống bị các hình thức xấu xa hành hạ.
231. Tình yêu được hiện thực từ những cử chỉ bé nhỏ chú tâm cho nhau, cũng mang tính chất xã hội và chính trị, và biểu lộ trong tất cả hành động cố xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Tình yêu mến xã hội và sự dấn thân cho công ích là một biểu lộ tuyệt vời cho tình bác ái, không những tương quan giữa các cá nhân, mà còn đi đến các tương quan vĩ mô [Makro-Beziehung – macro-relations]: tương quan xã hội, kinh tế, chính trị” [156]. Vì thế, Giáo Hội đề nghị với thế giới lý tưởng của một “văn hoá tình thương” [Kultur der Liebe – civilisation de l’amour] [157]. Tình yêu, trên bình diện xã hội, là chìa khoá cho một sự phát triển đích thực: “Để có thể làm cho xã hội nhân bản hơn, cá nhân với nhân phẩm tốt đẹp hơn, phải đánh giá lại tình yêu trong đời sống xã hội – trên bình diện chính trị, kinh tế và văn hoá – và phải đặt tình yêu trở thành lề luật cao nhất cho hành động” [158]. Trong khung này, tình yêu thúc đẩy chúng ta suy nghĩ đến những chiến thuật mới ngay cả như bắt dừng sự tàn phá môi trường và đòi hỏi một nền “văn hoá bảo vệ” [kultur der Achtsamkeit – culture de protection] ảnh hưởng trên toàn xã hội. Khi có người nào nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa, sẽ cùng chung với những người khác tham gia vào sự năng động xã hội, người đó cũng nhớ lại rằng, đó là một phần linh đạo của họ, chính là thực hiện tình yêu tha nhân và khi thực hiện theo cách thức này họ sẽ trưởng thành và tự thánh hoá chính mình.
232. Không phải tất cả mọi người đều được kêu gọi trực tiếp tham gia vào chính trị, nhưng ngay trong xã hội đã xuất hiện nhiều tổ chức chú tâm vào công ích, khi cố gắng bảo vệ môi trường thành phố. Tỉ như họ lo lắng cho có một nơi công cộng (một toà nhà, một vòi phung nước, một đài kỷ niệm, một khung cảnh thanh bình, một công trường) và tất cả những gì thuộc về những đối tượng đó; họ lo lắng bảo vệ, lành mạnh hoá, làm tốt hơn hoặc làm đẹp hơn. Quanh những tổ chức đó, triển khai hoặc nảy sinh một mạng lưới xã hội. Một cộng đồng tự giải thoát mình khỏi sự tiêu thụ dửng dưng. Điều đó làm nổi bật văn hoá của một căn tính chung, một lịch sử tồn tại và tiếp tục phát triển. Theo cách này, thế giới và phẩm chất đời sống của người nghèo sẽ được chăm sóc, nhờ vào ý nghĩa liên đới, đồng thời cũng là ý thức cùng chung một nhà, được Thiên Chúa trao phó. Những hoạt động chung như thế, khi diễn tả một tình yêu dâng hiến, có thể trở thành những kinh nghiệm tinh thần sâu xa.
VI. NHỮNG DẤU CHỈ BÍ TÍCH VÀ YÊN LẶNG ĐỂ CỬ HÀNH
233. Vũ trụ đang khai mở trong Thiên Chúa, Đấng bao phủ chúng tràn đầy. Như thế. có một mầu nhiệm trong một trang giấy, trên một con đường, trong sương mai, trong gương mặt của người nghèo [159]. Lý tưởng không chỉ là từ bên ngoài tiến vào bên trong để khám phá ra hành động của Thiên Chúa trong linh hồn, nhưng có thể đạt được qua cuộc gặp gỡ Người trong mọi vật, Như thánh Bonaventura dạy: “Chiêm niệm chỉ đạt đến đỉnh cao khi con người cảm nghiệm hiệu quả hồng ân Thiên Chúa trong chính mình, hoặc khi con người càng hiểu rõ để gặp gỡ Thiên Chúa trong mọi thụ tạo bên ngoài” [160].
234. Thánh Gioan Thánh Giá dạy, những gì tốt đẹp trong vạn vật và trong kinh nghiệm của thế giới “sẽ gặp nhau trong Thiên Chúa hoặc nói rõ hơn, mỗi sự vật cao vời là chính Thiên Chúa, cũng như tất cả những gì tuyệt vời đều kết hợp trong Thiên Chúa” [161] Không phải những vật hạn hẹp thực sự mang thiên tính, nhưng người theo thần bí sẽ cảm nghiệm trong thâm sâu của mình, điều giữa Thiên Chúa và tất cả vạn vật, và như thế họ cảm nhận: tất cả vạn vật là Thiên Chúa [Alle Dinge – das ist Gott / il sent que Dieu est toutes les choses] [162] Nếu người ấy kinh ngạc trước sự vĩ đại của một ngọn núi, thì họ không thể tách ngọn núi ra khỏi Thiên Chúa và nhận thức, sự kinh ngạc nội tâm mà họ cảm nghiệm, phải hướng về Chúa. “Những ngọn núi được nâng lên cao, chúng thật màu mỡ, rộng, đẹp, mát mẻ, đầy bóng mát. Đối với tôi, những ngọn núi này là Đấng yêu thương của tôi [Diese Gebirge – das ist mein Geliebter fũr mich – Mon Bien-Aimé est pour moi ces montagnes]. Những thung lũng xa xôi thật êm ả, dễ thương, thoáng đãng và đầy bóng mát, đầy nước ngọt, với biết bao loài cây cối, với tiếng ca của các loài chim đang trú ngụ. Chúng tạo nên sự mát mẻ và yên nghỉ nhờ sự yên tịnh và thinh lặng đang có. Đối với tôi, những thung lũng này là Đấng yêu thương tôi” [163].
235. Các bí tích là môt cách thức ưu tuyển, trong đó, thiên nhiên được Thiên Chúa đón lấy và trở thành trung gian cho đời sống siêu nhiên. Qua diễn tiến phụng vụ, chúng ta được mời gọi ôm lấy thế giới trên một bình diện khác. Nước, dầu, lửa và màu sắc được đón nhận với các biểu trưng của chúng và được đưa vào những lời ca tụng. Bàn tay chúc lành là công cụ của tình yêu Thiên Chúa và phản ánh sự gần gũi của Đức Giêsu Kitô, Đấng đến để đồng hành với chúng ta trên đường đời. Nước được xối trên thân xác em bé được rửa tội, là dấu chỉ cho một đời sống mới. Chúng ta không thoát ra khỏi thế gian, cũng không phủ nhận thiên nhiên, khi chúng ta muốn gặp gỡ Thiên Chúa. Điều này có thể nhận ra một cách đặc biệt trong linh đạo Kitô giáo Đông phương: “Vẻ đẹp là một trong những dấu chỉ ưu ái nhất trong Giáo Hội Đông phương để chỉ sự hoà hợp thần linh và mẫu ảnh cho nhân loại được chuyển đổi, được biểu lộ ở khắp mọi nơi: trong các hình dáng và cách trình bày nhà thờ, trong âm thanh, màu sắc, ánh sáng, trong mùi hương” [164]. Theo kinh nghiệm Kitô giáo, tất cả thụ tạo của vũ trụ vật chất sẽ tìm được ý nghĩa đích thực trong Ngôi Lời Nhập Thể, chỉ vì Con Thiên Chúa đã hội nhập trong con người của mình một phần của vũ trụ vật thể, nơi mà Người đưa vào một mầm giống chuyển đổi dứt khoát: “Kitô giáo không phủ nhận vật chất, thân xác, nhưng đánh giá cao trong hành động phụng vụ, trong đó, thân xác con người cho thấy bản chất sâu xa của mình là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần và được kết hiệp với Chúa Giêsu, Đấng vì muốn cứu độ trần gian đã đón nhận một thân xác” [165].
236. Sáng tạo tìm được ý nghĩa cao cả nhất của mình trong bí tích Thánh Thể. Hồng ân hướng đến sự biểu lộ theo cách khả giác, đạt được cách biểu lộ khác thường khi Thiên Chúa làm người, trở thành lương thực cho thụ tạo. Nơi đỉnh cao của mầu nhiệm Nhập Thể, Chúa đã muốn tiến vào sâu thẳm của chúng ta qua một chút vật chất. Không phải từ trên cao xuống, nhưng từ trong thâm sâu tiến ra, để chúng ta có thể gặp gỡ Người trong thế giới của chúng ta. Trong bí tích Thánh Thể, sự viên mãn đã được hiện thực; đó là trung tâm đời sống của vũ trụ, điểm xuất phát tràn đầy của tình yêu và cuộc sống vô hạn. Kết hợp với Ngôi Con Nhập Thể đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể, toàn thể vũ trụ tạ ơn Thiên Chúa. Thật vậy, bí tích Thánh Thể tự tại là một hành động tình yêu mang tính vũ trụ: “Vâng, mang tính vũ trụ! Vì ngay cả khi được cử hành trên bàn thờ nhỏ trong một nhà thờ vùng quê, người ta vẫn luôn cử hành với một ý nghĩa xác tín trên bàn thờ của thế giới” [166]. Bí tích Thánh Thể kết hợp trời với đất, ôm trọn và thẩm thấu vào tất cả sáng tạo. Thế giới xuất phát từ bàn tay của Thiên Chúa, quay về với Người trong một sự thờ phượng thánh thiện và viên mãn. Trong Bánh Thánh Thể “cả sáng tạo hướng đến việc thần hoá, đến các tiệc thánh, đến sự kết hợp với Đấng Sáng Tạo” [167]. Vì thế, bí tích Thánh Thể cũng là nguồn ánh sáng và động lực để việc chăm sóc môi trường và mời gọi chúng ta trở thành những người gìn giữ toàn thể sáng tạo.
237. Chúa Nhật, việc tham dự vào bí tích Thánh Thể mang một ý nghĩa đặc biệt. Ngày này cũng giống như ngày Sabbat của người Do Thái, là ngày thanh tẩy những tương quan của con người với Thiên Chúa, với chính mình, với kẻ khác và với cả thế giới. Chúa Nhật là ngày Phục Sinh, “ngày đầu tiên” của sáng tạo mới, mà những hoa trái đầu tiên là nhân loại được phục sinh của Chúa, gia sản bảo đảm cho việc chuyển đổi cuối cùng của tất cả thực tại đã được sáng tạo. Ngoài ra, ngày này cũng công bố “sự yên nghỉ vĩnh cửu của con người trong Thiên Chúa” [168]. Trong cách thức này, linh đạo Kitô giáo hội nhập cả giá trị của sự nghỉ ngơi và lễ lạc. Con người thường đưa sự nghỉ ngơi chiêm niệm vào bình diện những điều vô ích và không cần thiết, và quên rằng công việc mà họ thực hiện mang một tính chất quan trọng: ý nghĩa của mình. Chúng ta được mời gọi đưa vào hành động của chúng ta một chiều kích đón nhận và nhưng không, khác với việc không làm gì cả. Đó là một cách thức hoạt động, là một phần thuộc về yếu tính của chúng ta. Với cách thức này, hoạt động của con người không chỉ tránh khỏi sự hoạt động trống rỗng, cũng như sự khao khát bạo lực và cô độc, chỉ chạy theo lợi lộc cá nhân. Luật nghỉ ngơi hằng tuần nói rõ, không làm việc trong ngày thứ bảy, “để bò lừa của ngươi được nghỉ ngơi, và để đứa con của nữ tỳ ngươi và người ngoại kiều lấy lại sức” (Xh 23,12). Thật vậy, việc nghỉ ngơi là một sự nới rộng cái nhìn giúp nhận ra cách mới mẻ quyền lợi của kẻ khác. Như thế, ngày nghỉ, mà bí tích Thánh Thể là trung tâm, chiểu toả ánh sáng trên cả tuần lễ và thúc đẩy chúng ta lo chăm sóc cho thiên nhiên và người nghèo.
VII. THIÊN CHÚA BA NGÔI VÀ TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC THỤ TẠO
238. Thiên Chúa Cha là nguồn gốc tối thượng của tất cả, Đấng là nền tảng đầy tình thương và kết hiệp với tất cả những gì hiện hữu. Chúa Con, Đấng phản ánh Chúa Cha và qua Người mà muôn vật được tạo thành, đã tự liên kết với trái đất này, khi Người được hình thành trong cung lòng Đức Maria. Chúa Thánh Thần, dây liên kết bất tận của tình yêu, hiện diện một cách thân thiết với vũ trụ, khi Người tác động và tạo nên những con đường mới. Thế giới được Thiên Chúa Ba Ngôi tạo dựng như một nguyên lý thần linh duy nhất, nhưng mỗi Vị thực hiện công trình chung này theo cách của mình. “Khi chúng ta kinh ngạc chiêm ngắm sự vĩ đại và vẻ đẹp của vũ trụ, chúng ta phải ngợi khen Thiên Chúa Ba Ngôi” [169].
239. Đối với các Kitô hữu, niềm tin vào một Thiên Chúa, Đấng là sự hiệp thông Ba Ngôi, gợi lên trong chúng ta suy nghĩ về tất cả thực tại chứa đựng trong nội tâm của Người là một dấu chứng rõ ràng cho Ba Ngôi Thiên Chúa. Thánh Bonaventura tiến xa hơn để xác định, trước khi phạm tội, con người có thể khám phá ra nơi mỗi thụ tạo “đều biểu lộ Thiên Chúa Ba Ngôi”. Con người có thể nhận ra vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi trong thiên nhiên “khi quyển sách này không phải tối mò đối với con người, và con mắt của con người không bị xáo động” [170] Vị Thánh dòng Phanxicô dạy chúng ta, “mỗi thụ tạo mang trong mình một cấu trúc rõ ràng về Ba Ngôi”, rõ ràng đến độ chúng ta có thể tình cờ chiêm ngắm nếu như cái nhìn của con người không bị ngăn cản, xáo trộn và yếu đuối. Ngài chỉ cho chúng ta những cách thức để tìm cách đọc ra thực tế với chìa khoá Ba Ngôi.
240. Các Ngôi vị Thiên Chúa là những liên hệ hiện hữu, và thế giới được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, là một sơi chỉ của liên hệ. Các thụ tạo hướng về Thiên Chúa và mỗi sinh vật, đến phiên mình có đặc tính hướng đến các sinh vật khác, đến độ ngay trong vũ trụ có vô số tương quan kết hợp với nhau cách mầu nhiệm [171]. Điều này mời gọi chúng ta không những kinh ngạc trước biết bao mối tương quan đang có giữa các thụ tạo, nhưng còn dẫn chúng ta khám phá ra chìa khoá của chính hiện thực của chúng ta. Vì con người lớn lên, trưởng thành và thánh hoá bản thân theo mức độ họ bước vào mối tương quan, khi bước ra khỏi bản thân mình để sống hiệp thông với Thiên Chúa, với kẻ khác và với tất cả thụ tạo. Như thế, họ bảo đảm trong hiện sinh của mình sự năng động của Ba Ngôi Thiên Chúa, mà Thiên Chúa đã đóng ấn trong con người từ lúc sáng tạo nên họ. Tất cả đều liên kết với nhau, và điều này mời gọi chúng ta sống một linh đạo liên đới với mọi thụ tạo, xuất phát từ mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
VIII. NỮ HOÀNG CỦA CẢ SÁNG TẠO
241. Đức Maria, người Mẹ đã lo lắng cho Chúa Giêsu, trong hiện tại, với tình mẫu tử và khổ đau, cũng đang chăm sóc cho thế giới đang bị thương tích. Với trái tim bị đâm thâu, Mẹ đã khóc trước cái chết của Đức Giêsu, bây giờ Mẹ cũng cảm thông với những người nghèo đang bị đóng đinh và các thụ tạo trên trái đất này tan nát vì quyền lực của con người. Mẹ sống với Chúa Giêsu trong hiển dung hoàn toàn biến đổi và tất cả thụ tạo đều ca tụng vẻ đẹp của Mẹ. Mẹ là người nữ “mặc áo mặt trời, mặt trăng… dưới chân Mẹ và mũ triều thiên với mười hai ngôi sao trên đầu Mẹ” (Kh 12,1). Được nâng lên trời, Mẹ là Mẹ và là Nữ Vương của toàn thể sáng tạo. Trong thân xác vinh quang, cùng với Đức Kitô Phục Sinh, một phần của sáng tạo đã đạt được trọn vẹn sự đẹp đẽ của mình. Mẹ nhìn vào trong trái tim của Mẹ không những toàn bộ đời sống của Chúa Giêsu, mà Mẹ đã gìn giữ một cách trung tín (x. Lc 2, 19.51), nhưng bây giờ Mẹ hiểu được ý nghĩa của vạn vật. Vì thế, chúng con có thể kêu cầu Mẹ, để Mẹ giúp chúng con, biết nhìn thế giới với con mắt khôn ngoan hơn.
242. Cùng với Mẹ, nổi bật hình ảnh của thánh Giuse trong Thánh Gia. Ngài chăm sóc Đức Maria và Chúa Giêsu với lao động và sự hiện diện quảng đại của mình và đã giải thoát các ngài khỏi quyền lực của kẻ bất công, khi đưa các ngài sang Ai Cập. Trong Tin Mừng, ngài xuất hiện như một người công chính, lao động và mạnh mẽ. Thế nhưng, gương mặt của ngài cũng cho chúng ta nhận thấy một sự dịu hiền vĩ đại, không phải là đặc tính của kẻ yếu đuối, nhưng là của những kẻ thực sự mạnh mẽ, chú tâm đến thực tế để yêu mến và phục vụ cách khiêm tốn. Vì thế, ngài được tuyên bố là Đấng Bảo Hộ cho toàn thể Giáo Hội. Ngài cũng có thể dạy chúng ta để che chở, có thể động viên chúng ta lao động với tấm lòng quảng đại và âu yếm, để chăm sóc thế giới mà Thiên Chúa đã gửi gắm cho chúng ta.
243. Cuối cùng, chúng ta đứng đối diện với vẻ đẹp vô tận của Thiên Chúa (x. 1 Cr 13,12) và với một sự thán phục sung sướng, chúng ta có thể đọc được mầu nhiệm Người cho chúng ta chia sẻ vào sự viên mãn vô tận của Người. Vâng, chúng ta đang lữ hành đến ngày Sabbát vĩnh cửu, đến Giêrusalem mới, ngôi nhà chung ở trên trời. Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Đây! Ta làm cho tất cả nên mới” (Kh 21,5). Cuộc sống vĩnh cửu sẽ là một sự kinh ngạc được chia sẻ, nơi mỗi thụ tạo sẽ tìm được vị trí của mình trong việc hiển linh chói sáng và sẽ có điều gì mang đến cho kẻ nghèo được giải phóng một cách dứt khoát.
244. Giữa thời gian đó, chúng ta được kết hợp lại với nhau để đón nhận ngôi nhà này, ngôi nhà được trao cho chúng ta, vì chúng ta biết, tất cả điều gì tốt đẹp đang có, sẽ được đón nhận vào bàn tiệc thiên quốc. Chúng ta sẽ cùng tiến bước với tất cả thụ tạo trên con đường của chúng ta trên thế gian này – để đi tìm Thiên Chúa – chỉ vì “khi thế gian có một nguồn gốc và được tạo dựng, nó sẽ đi tìm Đấng sáng tạo nên nó, nó tìm Đấng đã ban cho nó một khởi đầu, đó là Đấng Sáng Tạo của nó” [172]. Hãy tiến bước trong tiếng ca vang! Ước gì, cuộc chiến đấu của chúng ta cho hành tinh này sẽ không cất đi khỏi chúng ta niềm vui của hy vọng.
245. Thiên Chúa, Đấng kêu gọi chúng ta dấn thân cách quảng đại, ban cho chúng ta sức mạnh và ánh sáng mà chúng ta cần thiêt đế tiến bước. Giữa trung tâm thế giới này, Chúa của cuộc sống, Đấng quá yêu thương chúng ta, vẫn tiếp tục hiện diện. Người sẽ không bao giờ lìa bỏ chúng ta, không bao giờ để chúng ta một mình, chỉ vì Người dứt khoát kết hợp với trái đất của chúng ta và tình yêu của Người vẫn luôn dẫn chúng ta đi tìm những con đường mới. Chúc tụng Người!
246. Sau một suy tư lâu dài vừa vui, cũng vừa đầy đau khổ, tôi xin đề nghị hai lời kinh: một lời mà chúng ta có thể chia sẻ với tất cả mọi người tin vào một Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo đầy quyền năng, và một lời kinh khác để cho những người Kitô hữu chúng ta có thể đón nhận trách nhiệm đối với sáng tạo như Tin Mừng của Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta.
Lời kinh cho trái đất chúng ta
Lạy Thiên Chúa toàn năng
Chúa luôn hiện diện trong vũ trụ
và ngay trong những thụ tạo nhỏ bé nhất của Chúa.
Chúa đã phủ đầy lòng từ ái trên tất cả những gì hiện hữu,
Xin gieo vào lòng chúng con sức mạnh của tình yêu Chúa,
để chúng con bảo vệ cuộc sống và vẻ đẹp muôn loài.
Xin đổ tràn bình an của Chúa vào lòng chúng con,
để chúng con có thể sống như anh em, chị em với nhau,
không tác hại cho bất cứ người nào.
Lạy Thiên Chúa của anh chị em nghèo khổ,
xin trợ giúp chúng con
để chúng con giơ tay cứu giúp những anh chị em bị bỏ rơi,
những người bị lãng quên trên trái đất này,
những người này thực sự luôn luôn có giá trị trước mặt Chúa.
Xin cứu chữa cuộc sống của chúng con,
để chúng con trở thành những người bảo vệ cho trái đất này,
chứ không phải là những kẻ cướp bóc,
để chúng con gieo những gì tốt đẹp
chứ không phải những thứ ô nhiễm và tàn phá.
Xin chạm đến tâm hồn những kẻ chỉ tìm thành công
dựa trên giá trị của người nghèo và của trái đất này.
Xin dạy chúng con
khám phá giá trị của vạn vật
và biết chiêm ngắm trong sự ngất ngây,
để nhận ra
chính chúng con cũng được liên kết sâu xa với tất cả thụ tạo này
trên con đường chúng con tiến vào ánh sáng vô tận của Chúa.
Xin tạ ơn Chúa
vì Chúa hiện diện từng ngày với chúng con.
Chúng con nài xin Chúa
nâng đỡ chúng con
trong cuộc chiến cho công bằng, tình thương và bình an.
Lời kinh của Kitô hữu cùng với sáng tạo
Lạy Cha,
Cùng với muôn thụ tạo xuất phát từ bàn tay uy quyền của Cha,
chúng con cùng ngợi khen Cha.
Tất cả đều thuộc về Cha
và tất cả được tràn đầy sự hiện diện và tình âu yếm của Cha.
Chúng con xin ngợi khen Cha.
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
nhờ Chúa mà tất cả được tạo thành.
Trong cung lòng Mẹ Maria,
Chúa đã nhận lấy hình dạng con người ;
Chúa trở thành một thành phần của trái đất này
và đã nhìn thế giới với con mắt nhân loại.
Ngày nay Chúa vẫn sống động trong từng thụ tạo
với vinh quang phục sinh của Chúa.
Chúng con xin ngợi khen Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần,
nhờ ánh sáng của Chúa,
Chúa đã hướng thế giới này đến tình yêu của Chúa Cha;
Chúa vẫn sống trong tâm hồn chúng con,
để khuyến khích chúng con thực hành các việc thiện.
Chúng con xin ngợi khen Chúa.
Lạy Thiên Chúa, Duy nhất và Ba Ngôi,
Cộng Đoàn Tối Thượng của tình yêu vô biên,
xin dạy chúng con biết nhìn ngắm Chúa
trong vẻ đẹp của vũ trụ,
nơi tất cả nói với chúng con về Chúa.
Xin khơi dậy trong chúng con lời ca ngợi với lòng biết ơn
đối với từng hữu thể do Chúa sáng tạo.
Xin ban cho chúng con hồng ân
để chúng con cảm nhận sự gắn bó thân thiết với tất cả vạn vật.
Lạy Thiên Chúa tình yêu,
xin cho chúng con thấy vị trí của chúng con trong thế giới này
như khí cụ tình yêu của Chúa
đối với tất cả sinh vật trên trái đất này,
mà không thụ tạo nào lại quên Chúa.
Xin soi sáng cho những người ôm lấy giàu sang và quyền hành,
để họ lánh xa khỏi tội lỗi về sự dửng dưng,
biết yêu mến công ích,
động viên kẻ yếu hèn
và chăm sóc thế giới mà chúng con đang sống,
Kẻ nghèo và trái đất đều nài xin:
Lạy Chúa, xin nắm lấy chúng con
bằng quyền năng và ánh sáng của Chúa,
để chở che mọi sự sống,
để chuẩn bị một tương lai tốt đẹp,
ước gì Nước công bằng, bình an, tình thương và tuyệt mĩ mau đến.
Chúng con chúc tụng Chúa.
Amen.
Ban hành tại Rôma, cạnh đền thờ Thánh Phêrô, ngày 24 tháng Năm, ngày đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, vào năm thứ ba triều đại Giáo Hoàng của tôi.
ĐGH Phanxicô
.
[143] Ibid., 231: p. 1114.
[144] ROMANO GUARDINI, Das Ende der Neuzeit, 9th edition, Würzburg, 1965, 66-67 (English: The End of the Modern World, Wilmington, 1998, 60).
[145] JOHN PAUL II, Message for the 1990 World Day of Peace, 1: AAS 82 (1990), 147.
[146] BENEDICT XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), 66: AAS 101 (2009), 699.
[147] ID., Message for the 2010 World Day of Peace, 11: AAS 102 (2010), 48.
[148] Earth Charter, The Hague (29 June 2000).
[149] JOHN PAUL II, Encyclical Letter Centesimus Annus (1 May 1991), 39: AAS 83 (1991), 842.
[150] ID., Message for the 1990 World Day of Peace, 14: AAS 82 (1990), 155.
[151] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 Nov 2013), 261: AAS 105 (2013), 1124.
[152] BENEDICT XVI, Homily for the Solemn Inauguration of the Petrine Ministry (24 April 2005): AAS 97 (2005), 710.
[153] AUSTRALIAN CATHOLIC BISHOPS’ CONFERENCE, A New Earth – The Environmental Challenge (2002).
[154] ROMANO GUARDINI, Das Ende der Neuzeit, 72 (The End of the Modern World¸ 65-66).
[155] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), 71: AAS 105 (2013), 1050.
[156] BENEDICT XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009) 2: AAS 101 (2009), 642.
[157] PAUL VI, Message for the 1977 World Day of Peace: AAS 68 (1976), 709.
[158] PONTIFICAL COUNCIL FOR JUSTICE AND PEACE, Compendium of the Social Doctrine of the Church, 582.
[159] EVA DE VITRAY-MEYEROVITCH [ed.], Anthologie du soufisme, Paris 1978, 200).
[160] In II Sent., 23, 2, 3.
[161] Cántico Espiritual, XIV, 5.
[162] Ibid.
[163] Ibid., XIV, 6-7.
[164] JOHN PAUL II, Apostolic Letter Orientale Lumen (2 May 1995), 11: AAS 87 (1995), 757.
[165] Ibid.
[166] ID., Encyclical Letter Ecclesia de Eucharistia (17 April 2003), 8: AAS 95 (2003), 438.
[167] BENEDICT XVI, Homily for the Mass of Corpus Domini (15 June 2006): AAS 98 (2006), 513.
[168] Catechism of the Catholic Church, 2175.
[169] JOHN PAUL II, Catechesis (2 August 2000), 4: Insegnamenti 23/2 (2000), 112.
[170] Quaest. Disp. de Myst. Trinitatis, 1, 2 concl.
[171] Cf. THOMAS AQUYNAS, Summa Theologiae, I, q. 11, art. 3; q. 21, art. 1, ad 3; q. 47, art. 3.
[172] BASIL THE GREAT, Hom. in Hexaemeron, I, 2, 6: PG 29, 8