Thứ Hai, 07 Tháng Chín, 2015 321

LAUDATO SI, XIN NGỢI KHEN CHÚA (III)

Phần III :Chương 6

 

 

CHƯƠNG SÁU

GIÁDỤVÀ LINH ĐẠO MÔI SINH

202. Nhiềđiềphảđượđịnh hướng lại, nhưng trước tiên nhân loạphảtự thay đổi. Cầcó mộý thứvề nguồgốc chung, mộsự thuộvề nhau cách hỗ tương và một tương lai được chia sẻ cho mọngười. Ý thức căn bảnày cho phécó mộsự phátriểnhững xátímới, cách thức liên hệ và hình thứcuộsống. Đây chính là thách thứlớvề mặt văn hoá, tinh thầvà giádục, sẽ kédài trong mộtiếtrình tái sinh thậkhó khăn.

 

I. HƯỚNG ĐẾMỘLỐSỐNG KHÁC

203. Thị trường luôn luôn hướng đếviệtạo ra mộbộ máy tiêu thụ không thể đảngượlạđược, để cásảphẩcuốcùng nhấchìm con ngườvào trong mộvòng xoáy mua và sử dụng phung phí cách vô ch. Chủ thuyết tiêu thụ cách bệnh hoạlà phảnh chủ quan củthựdụng kinh tế – kỹ thuật. Romano Guasdini đã bátrướvề vấđề này: con người “chấnhậcávậdụng và cách sống như dự áhợlý và sảphẩm quy định do mámóđặt cho họvà họ thựhiệtoàbộ vớcảgiác như thế là hợlý và đúng đắn [144]. Sự thựdụng khiến người ta tin tưởng rằng mình hoàtoàtự do, bao lâu họ có đượsự tự do tiêu thụ; nhưng trong thựtế chỉ có mộsố nhỏ có đượsự tự do, đó là những ngườcó quyềlựvề kinh tế và tàchính. Trong sự mơ hồ này, nhân loạthờhậhiệđạđã không tìđượsự tự ý thứgiúhọ định hướng và cảnghiệsự thiếsóvề căn tính với lo âu. Chúng ta có quá nhiều phương tiện cho mộvàmục tiêu hạhẹvà nhỏ bé.

204. Hoàcảnh hiệtạcủthế giới “tạmộcảgiáthiếxátívà bất an, đưa đếnhững hình thứch kỷ tậthể [145]. Khi con ngườtự kỷ và tự nhốmình vàý thứcủa riêng mình, họ sẽ không được thoả mãn. Khi trái tim con ngườtrống rỗng, sẽ cầrấnhiều thứ để mua, để chiếhữvà để tiêu thụ. Trong tình trạng này, thật không thể nàmộngườlại cho rằng thựtạđã đặt ranh giới cho họ. Trong vòng suy nghĩ nàcũng không thể có công ch thựsựNếmẫngười như thế đứng đầmộcộng đoàn, cáluậlệ chỉ có thể tôn trọng trong chừng mực không đi ngượlại nhu cầcủhọVì thếchúng ta không những nghĩ đếkhả năng những hiệtượng khủng khiếcủkhí hậu hoặc những tai hoạ tự nhiên lớn lao, nhưng cả những tai hoạ do các cơn khủng hoảng xã hội, vì định kiếvề mộlốsống tiêu thụ như thế – nhấlà, khi chỉ có mộnhónhỏ sống như vậy – chỉ gây nên bạlựvà tự phá hoại nhau.

205. Dù vậy, không phảtấcả đềbị đánh mất, vì con ngườcó đủ khả năng để tự hạ mình đếmứcuối, cũng có thể vượt lên trên, quyếđịnh cho điềthiệvà tự cải hoá mình cho tốt hơn, loạbỏ tấcả những điềkiện tinh thầvà xã hội đang đè néhọHọ có khả năng, tự khẳng định mình mộcách trân trọng, cởbỏ những điềchángấvà quyếđịnh con đường mớđếsự tự do đích thực. Không có hệ thống nàcó thể tiêu diệtriệđể việc khai mở cho điềthiện, chân lý và vẻ đẹp, cũng như khả năng thích ứng. Khả năng nàđã có sẵvì chính Thiên Chúa, từ sâu thẳcủa con tim con người, đã động viên chúng ta. Tôi xin mỗngười trong thế giớnày, đừng bao giờ quên phẩgiá củmình ; không ai có quyềrút đi phẩgiá nàđược.

206. Mộcuộc thay đổlốsống có thể đưa đếviệthựhiệmộlực thanh thoát trên những ngườnắlấquyềlựchính trị, kinh tế và xã hội. Điềnàxảy ra khi phong trànhững người tiêu thụ sẽ không mua mộsố sảphẩvà trở nên hữhiệu hơn để sửa sai tháđộ của doanh nghiệp, khi buộhọ phải suy nghĩ về táđộng đến môi trường và cámẫsảxuất. Đó là mộthựtế, khi thói quen xã hộnh hưởng trên thu nhậviệc kinh doanh, buộhọ phải thay đổcách sảxuất. Điềnànhắchúng ta nhớ về trách nhiệcủngười tiêu thụ. “Việc mua không những là mộhành động kinh tế, nhưng vẫn luôn là mộhành động luân lý [146]. Vì thế, “đề tài ô nhiễm môi trường đòbuộtháđộ củtừng người trong chúng ta phảchịtrách nhiệm” [147].

207. Hiến chương TráĐất [die Erd-Charta – la Charte de la Terre] mờgọtấcả mọngườchúng ta quay lưng lạvới giai đoạtự tàphá mình và bắđầmộbướtiếmới, nhưng chúng ta chưa triển khai ý thứphổ quát, đó là điềtạkhả năng cho chúng ta để thựhiện. Vì thế, tôi xin đề nghị lạlờđòbuộđầgiá trị này: “Như chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử nhân loại, định mệnh chung mờgọchúng ta can đảtìmộkhởđầmới […] Hãđể cho thờđạtạdáng cho chúng ta, để người ta sẽ nhớ thời gian nàlà mộthờđánh thứsự tôn trọng mớmẽ trướcuộsống, như mộthời gian quyếđịnh vững vàng đạtớsự lâu dài, như mộthời gian thúđẩtiếđến công bằng và bình an, và như mộthời gian cử hành thậhạnh phúcủcuộsống [148].

208. Vẫn luôn luôn có khả năng để bước ra khỏi con ngườcủmình để đếvớkẻ khác. Nếu không có khả năng này, người ta không thể nhận ra giá trị đặthù củnhững thụ tạo khác, và cũng không chú tâm làmộđiềgì đó cho kẻ khác, cũng như không có khả năng để tự xáđịnh ranh giớđể tránh đau khổ hay gây hại cho xung quanh. Tháđộ cơ bảđể vươn ra khỏmình, khi phá vỡ sự cô độc trong ý thứvà chỉ quy về mình, là nguồgốđể tâm đếkẻ khávà môi trường. Tháđộ này đem đếcáphảứng luân lýđể nhận ra táđộng và từng quyếđịnh cá nhân bước ra khỏbản thân mình. Khi chúng ta có khả năng vượt qua chủ nghĩcá nhân, bấgiờ mớcó thể tự triển khai mộlốsống và mộsự thay đổi mang đầý nghĩa trong xã hội.

 

II. GIÁDỤC CHO MỘSỰ LIÊN KẾGIỮA NHÂN LOẠVÀ MÔI TRƯỜNG

209. Ý thứvề sự trầtrọng cơn khủng hoảng văn hoá và môi sinh nổbật trong những thói quen mới. Nhiềngườbiếrằng, sự phátriểhiệtạvà việc thu thập đơn thuầcáđốtượng và tiêu dùng vẫn chưa đủđể có thể đem lạý nghĩa cho tâm hồn con ngườvà ban niềm vui cho họ, nhưng họ cảthấy không có khả năng từ chốđiềmà thị trường mờmọhọ. Trong nhiềđấnước, cần phải đưa ra những thay đổmớvề thói quen tiêu thụgiớtrẻ có cảnhậmớvề sinh thávà tinh thầquảng đại, mộvàngười trong số họ phấđấmộcách đáng kinh ngạc cho việbảvệ môi trường, nhưng vì họ lớn lên trong mộhoàcảnh tiêu thụ và thoảmái, thật cũng khó để phátriểnhững thói quen khác. Vì thếchúng ta đứng trướmộthách thứvề giádục.

210. Việgiádụvề môi trường đã phổ biếmục tiêu củmình. Nềgiádụnàkhởđầbằng cách đưa ra những thông tin khoa học, cũng như cảnhậvà ý thứvề những nguy cơ cho môi trường, sau đó mới đưa ra lời phê bình về những “huyềthoại” dựa trên lý trí cơ chế củthờđại (chủ nghĩcá nhân, phátriển không định hướng, cạnh tranh, chủ nghĩa tiêu thụthị trường không luậlệvà triển khai cábình diệkhác nhau về sự cân bằng sinh thái: bình diệnộtạvớchính mình, bình diện liên đớvớnhững ngườkhác, bình diệtự nhiên vớcác sinh vậvà bình diện tinh thầvới Thiên Chúa. Việgiádục môi trường chuẩbị cho chúng ta mộbướtiếvàmầnhiệm, từ đó đạđượý nghĩa sâu xa của luân lý môi sinh. Mặkhác, cánhà giádụcó khả năng theo lốgiádụcủmình cho thấmộnền luân lý mớvề môi sinh, giúlànổbậtình liên đới, trách nhiệvà cùng cảnhậsự quan tâm chung.

211. Dù vậy, giádụnàcố tạo ra mộthứ “công dân sinh thái”, nhưng đôi khi bị ngăn chặn thông tin và không đạđượviệphátriểnhững thói quen. Sự hiệhữcálề luậvà luậlệ vớmộthời gian dài không thể ngăn chặn cátháđộ xấu, cho dù đã có mộsự kiểsoáhữhiệu. Để cho cáluậlệ phálý đưa ra những hiệquả quan trọng và lâu dài, cầcó nhiềthành phần trong xã hộchấnhậnhờ vànhững động lựthích hợp, và khởđộng từ mộsự thay đổcá nhân. Chỉ từ việc vung đắp những nhân đứvững vàng mà việtự ban tặng chính mình trong sự dấn thân sinh thámớcó thể được. Nếmộngườcó thói quen mặấm thay vì đốlò sưởi, vì tình hình tàchính cho phép, họ tiêu thụ và sử dụng phung phíđiềnày cho thấhọ đã đónhậnhững xátívà ý nghĩa cho việbảvệ môi trường. Chu toàbổphậbảvệ sáng tạnhờ vànhững hành động nho nhỏ trong ngày, thậlà tốđẹvà thậbấngờ, khi sự giádụcó khả năng tạo nên những điềtốđẹnày, đếviệtạmộlốsống thậthích hợp. Việgiádụgiúnhậtrách nhiệvới môi trường đòbuộnhiềtháđộ liên hệ có ảnh hưởng trựtiếvà mang ý nghĩa cho việbảvệ môi trường, cũng như việtránh sử dụng cávậcó chấliệnhựa hoá chấvà giấy, tiết kiệm nước, phân loạcáráthải, cũng như nấnướng vừđủ cho bữa ăn, chú tâm lo lắng cho cách sống củnhững ngườkhác, sử dụng các phương tiện lưu thông công cộng hoặc xe ôtô vớnhiềngười, trồng cây, tắđèn khi không sử dụng. Tấcả những điềnàđềlà những hành động quảng đạvà xứng đáng, sẽ đem đếđiềtốđẹp cho hữthể con người. Hành động sử dụng lạmộcágì đó thay gì quăng đi, có thể là mộhành động tình yêu lànổbậphẩgiá củchúng ta.

212. Đừng nghĩ rằng những cố gắng nàsẽ làm thay đổthế giới. Những hành động này gieo rắc trong xã hộmộđiềthiệhảo, sẽ luôn luôn mang lạnhiều hoa trávượt lên trên điềngười ta nhận ra được, chỉ vì chúng gây nên trên tráđấnàmộđiềthiệhảo đôi khi không nhận ra. Ngoài ra, việtriển khai cátháđộ này mang lại cho chúng ta cảnghiệvề chính phẩgiá củchúng ta, sẽ hướng chúng ta vàđiểm sâu thẳnhấcủcuộsống và cho chúng ta kinh nghiệđể thấcuộsống thậcó giá trị trên tráđấnày.

213. Những lãnh vựphổ biếgiádụnàrấkhác nhau: trường học, gia đình, các phương tiện thông tin, cálớgiálý và nhiềlãnh vựkhác. Một sự giádụtốt ở trường học khi các em còbé sẽ gieo được nhiều hạgiống sản sinh những hiệquả trong suốcuộđời. Nhưng tôi muốnhấmạnh đếý nghĩa quan trọng của gia đình, chỉ vì đó là nơi mà cuộsống là hồng ân của Thiên Chúđượđónhậmộcách thích hợvà được che chở khỏnhững tấn công mà cuộsống phảđốmặvà là nơi có thể triển khai những đòhỏthích đáng cho mộviệlớdậthật nhân bản. Chống lạthứ văn hoá củsự chết, gia đình là cái nôi cho văn hoá sự sống [149] Trong gia đình, người ta giúphátriểnhững thói quen đầu tiên củtình yêu và chăm sóc cho cuộsống, tỉ như việsử dụng đúng đắcávậdụng, trậtự và vệ sinh cho cuộsống, chú ý đếhệ thống môi sinh địa phương và bảvệ tấcả sinh vậđã đượsáng tạo. Gia đình là nơi giádụtrọvẹn, nơi những giai đoạkhác nhau củmộsự trưởng thành cá nhân đượdiễn ra, liên kếchặchẽ vớmọngười. Trong gia đình, người ta họhỏđể biết xin phép, để không xúphạđếkẻ khác, tiếng nói “cám ơn” như sự biểlộ mộsự đánh giá đúng đắn điềmà chúng ta lãnh nhận, làchủ sự tấn công và bạlực, và họbiết xin lỗi, khi chúng ta gây mộđiềgì tai hại. Những hành động nhỏ bé nàsẽ giúchúng ta lễ phép, mộthứ văn hoá củđờsống chung và sự tôn trọng vớtấcả những gì xung quanh chúng ta.

214. Trách nhiệcủchính trị và cátổ chứkhálà phảchú tâm đếcảnghiệcủa dân chúng. GiáHộcũng phảnhậtrách nhiệnày. Tấcả cácộng đoàn Kitô hữcũng phải chu toàn vai trò quan trọng trong việgiádụnày. Tôi cũng hy vọng trong cáđạchủng viện, các nơi đàtạcủcádòng tu, người ta giádụsự khắkhổ có trách nhiệm, mộsự chiêm ngắvớlòng biết ơn cả thế giớvà chú tâm đếnhững sự yếđuốcủngườnghèvà của môi trường. Không những cátổ chứcó quyềlựcầthiếđể phê chuẩchống lạnhững tấn công vào môi trường, những cũng cầthiếđể chính chúng ta cũng kiểsoámình và giádục nhau.

215. Trong hoàcảnh này, “không thể quên liên hệ giữviệđàtạvề vẻ đẹvớviệgìgiữ môi trường lành mạnh” [150]. Chú ý và yêu mếvẻ đẹsẽ giúchúng ta vượt qua chủ nghĩthựdụng. Khi mộngười không họbiếtự dừng lạđể quan sávà đánh giá điềgì là tốđẹp, thì không lấlàlạ gì khi tấcả đốvớngườđó trở thành đốtượng để sử dụng và lạdụng mà không chúngạngùng. Đồng thời, nếngười ta muốnhắđếviệc thay đổi sâu xa, phảthấcách suy nghĩ ảnh hưởng thựsự đếcátháđộViệgiádụsẽ không có hiệquả và những cố gắng sẽ vô ch, nếu như không chú tâm phổ biếmộhình nh mớmẽ về con người, về cuộsống, về xã hộvà sự liên hệ với thiên nhiên. Mặkhác, mô mẫnhằvàviệc tiêu thụ do phương tiệtruyền thông và mạng lướthị trường đầhiệquả vẫtiếtục.

 

III. CHUYỂĐỔI MÔI SINH

216. Gia sản phong phú của linh đạo Kitô giáo, xuấphát hai ngàn năm nay từ kinh nghiệcá nhân đếcộng đoàn, mang đếmộsự đóng gótốđẹp cho sự cố gắng canh tân nhân loại. Tôi muốđề nghị vớcác Kitô hữmộvàhướng căn bản cho một linh đạo môi sinh, xuấphátừ xátíniềm tin củchúng ta, vì những gì Tin Mừng dạđềcó hệ luậđếcách thức suy tư, cảnhậvà cách sống củchúng ta. Đây không nhắtrình bàcáý tưởng, nhưng trướnhất, về nềtảng chuyểđộng xuấphátừ linh đạđòbuộsự khổ tâm chăm sóc môi trường. Vì không thể dấn thân trong những việlớvớcálờgiảng dạmà không có mộthứ huyềnhiệm” tràđầy trong tâm hồchúng ta, không có những nềtảng lay chuyểnội tâm” để khởđộng, thúđẩy, động viên và trao ban cho nó mộý nghĩa [151]. Phảnhận ra, chúng ta là các Kitô hữu, có mộsự phong phú do Thiên Chúa ban cho GiáHội, nhưng chúng ta không thường đónhậvà tiếtụtriển khai – mộsự phong phú, trong đó linh đạdạtách biệkhỏthể xác, nhưng không tách biệkhỏi thiên nhiên hoặc là cáthựtạcủthế giớnày, nhờ đó và trong đó đượphát huy, trong cộng đoàvớtấcả những gì bao quanh chúng ta.

217. Nếthựsự các sa mạc bên ngoài gia tăng, chỉ vì sa mạnội tâm cũng lớdần [152] thì cơn khủng hoảng môi trường là mộlời kêu gọsự sáhốnội tâm sâu thẳm. Chúng ta phải công nhậrằng, có mộsố Kitô hữdấn thân và cầnguyện, thường cườcợcácảnh cávề môi trường vớlời xin lỗcủchủ nghĩthựtế và chủ nghĩthựdụng. Mộsố kháthụ động, quyết tâm không thay đổcáthói quen và trở thành rờrạc. Họ thiếmộsự sáhốthuộc sinh thái, giúthấnhững gì họ gặgỡ vớthế giới xung quanh; điềxuấphátừ sự gặgỡ vớĐức Giêsu Kitô, sẽ giúp cho tấcả nở hoa. Sống ơn gọlà mộngườbảvệ cho công trình của Thiên Chúlà mộphầtấyếcủmộhiện sinh đạđức; đó không phảlà điềgì củđịnh kiến, cũng không phảlà một phương diệthứ yếu trong kinh nghiệm Kitô giáo.

218. Chúng ta nhớ lại gương củThánh Phanxicô thành Assisi, để đề nghị một mối tương quan lành mạnh vớsáng tạo như chiềkích mộcuộsáhốtrọvẹcủa con người. Điềnàcũng đưa tớviệnhậthựnhững sai lầm, tộlỗi, tậxấu hoặc chễnh mãvà sáhốvớtrọn tâm hồn, thay đổnội tâm. Các Đức GiáMục Châu đã nórõ sự sáhối trong ý nghĩa hoà giảvớsáng tạo: “Để thựhiệsự sáhốnày, chúng ta phảbiếkhảnghiệlạđờsống củchúng ta và nhận ra rằng, vớcách thứnàchúng ta đã làtổn thương sáng tạcủa Thiên Chúa, bằng hành động cũng như vì sự bấlựcủchúng ta. Chúng ta phảcó một kinh nghiệvề sáhối, về mộsự thay đổi tâm hồn” [153].

219. Dù vậy, để giảquyếmộhoàcảnh quá đa dạng có thể đốmặvớthế giớngày nay, thật sự không đủ để từng ngườtự hoàthiện. Từng cá nhân đơn độcó thể đánh mấkhả năng và sự tự do củmình, để vượt qua lý luậcủlý trí mámóc, để rồcuốcùng trôi theo chủ thuyết tiêu thụ, không có chút luân lý và không có tí cảnghiệvề xã hộcũng như môi trường. Đốvớnhững vấđề xã hội, phảhoạđộng trong mạng lướtậthểchứ không phảbằng mộtổng hợp đơn thuầtàsảtích cựcủcá nhân. “Những đòhỏcủa công tánàthật bao la, không thể giảquyếbằng những khả năng dấn thân củcá nhân và sự cộng tácủnhiềngườdựa theo nguyên tắcá vịCầcó mộtổng hợsứlựvà sự thống nhấhướng dẫn” [154]. Sự sáhối mang tính chất sinh tháđòbuộphảcó mộsự năng động để thay đổi, đó là mộsự sáhốtậthể.

220. Việsáhốnàgiả thiết đưa ra nhiềtháđộ khác nhau, nốkết chung với nhau để đưa đếmộsự dấn thân bảvệ môi trường cách quảng đạvà đầy yêu thương. Bướđầu tiên, nó đòhỏsự biết ơn và nhưng không, có nghĩlà nhậthứthế giớlà một ân huệ đượlãnh nhậtừ tình yêu của Cha. Tiếđến, người ta phảthựtậsự từ bỏ, không chờ sự đátrảvà hành động thật quảng đại, cả khi không ai nhìthấvà công nhận: “Đừng cho tay trábiếviệc tay phảlàm […] Và Cha của anh, Đấng thấsuốnhững gì kíđáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,3-4). Việsáhốnàcũng đòbuộmộý thứtràđầtình yêu, không tách rờvớnhững thụ tạo khác, nhưng tạmộcộng đồng có giá trị bao trùtấcả những hữthể hiệhữu trong vũ trụNgười tin không nhìngắthế giớtừ bên ngoài, nhưng từ trong nội tâm và nhận ra dây liên kết mà qua đó Cha trên trờnốkếchúng ta vớtấcả hữthểNgoài ra, việsáhối sinh thágợi lên những khả năng đặbiệmà Thiên Chúa ban cho họsẽ giúhọ triển khai sứsáng tạcủmình và gia tăng sự thanh thoáđể giảquyếcác bi kịch củthế giớvà chính họ sẽ mang đến cho Thiên Chúmộlễ vậsống động và thánh thiện, làChúa vui lòng” (Rm 12,1). Họ hiểviệvượtrổcủhọ không phảlà cớ để tạo vinh quang cá nhân hoặc là cớ để thống trị mộcách vô trách nhiệm, nhưng là mộkhả năng khác, đặt ra cho mình trách nhiệnặng nềxuấphátừ niềm tin củmình.

221. Nhiềxátícủniềm tin chúng ta đã đượtrình bàtừ ngay đầu thông điệp – cũng như ý thứrằng, mỗi thụ tạo đềphảnh mộđiềgì đó của Thiên Chúvà có mộsứ điệcó thể dạdỗ chúng ta hoặc là ý thứrằng Đức Kitô đã đónhậthế giớvậchấnàvà hiệtạNgườlà Đấng Phục Sinh đang cư ngụ trong thâm sâu củtừng hữthể và đã ôm lấchúng bằng lòng từ củNgười, cũng như thấnhậnh sáng củNgườvào trong chúng ; và cũng như xátín: Thiên Chúđã sáng tạthế giớvà đã đặt trong chúng mộtrậtự và một năng động mà con người không có quyền quên đi. Khi có ai đọc trong Tin Mừng việChúa Giêsu nóvề các con chim và xánhậrằng, “Thiên Chúa không quên sót con nào” (Lc 12,6) hỏrằng ngườđó có còkhả năng hành xử xấu hay gây tai hại cho chúng được không? Tôi mời gọi tấcả các Kitô hữlàrõ nésự sáhối, khi cho phésứmạnh và ánh sáng của ân sủng đã đượlãnh nhậtrảrộng trên mọi tương quan vớtấcả thụ tạo khávà vớcả thế giới xung quanh, và gợi lên tình huynh đệ vớtoàthể sáng tạmà Thánh Phanxicô đã sống mộcách rạng rỡ.

 

IV. NIỀM VUI VÀ AN BÌNH

222. Linh đạo Kitô giáđề nghị mộcách hiểkhávề phẩchấcuộsống và động viên mộcách sống mang tính ngôn sứ và chiêm niệm, có khả năng vui mừng cách sâu xa mà không bị đè nébởi tiêu thụĐiềnày quan trọng khi lấlạmộlờdạcổ xưa có trong cátruyềthống tôn giákhác nhau và ngay cả trong Kinh Thánh. Lờnànóvề việxátín “lại hoá nhiều” [weniger mehr ist – moins est plus]. Việc luôn luôn chấđống cáđốtượng tiêu thụ sẽ hướng trái tim đi xuống và ngăn cảviệđánh giá từng đốtượng và từng giây phút. Ngượlại, sự kiệmình luôn luôn hiệdiệtrướmộthựtại, cho dù nó rấnhỏcũng mở cho chúng ta nhiềkhả năng để hiểbiếvà triểnở chính cá nhân mình. Linh đạo Kitô giáđề nghị mộsự phátriểnhờ sự điềđộ và mộkhả năng vui vớsố ít. Đó là việtrở về vớsự đơn sơ, cho phéchúng ta dừng lạđể đánh giá điềthậnhỏđể cám ơn cákhả năng mà cuộsống ban cho, mà chúng ta không phảbị tróbuộvàđiềchúng ta có và cũng không buồvì điềchúng ta không chiếhữu. Điềnàgiả thiếphảtránh sự năng động muốlàchủ và gia tăng niềm vui.

223. Sự điềđộnếđượsống vớtự do và ý thức, sẽ mang tính chấgiảphóng. Điềnày không có nghĩlà sống t hơn, cũng không có nghĩlà mứđộ thấkécủcuộsống, nhưng ngượlại ; vì trong thựtếnhững ngườsống nhiều hơn trong từng giây phúvà sống tốt hơn, sẽ chấdứviệtìtòi liên lỉ theo những đốtượng mà họ chưa có và khi tìkiếm như thếhọ có khả năng phá vỡ những nhu cầcầthiếvà thu ngắsự mệmỏlạvà íbị hành hạNgười ta có thể sống vớđiềcầthiết, nhấlà khi có khả năng xáđịnh những thú vui khác; người ta có thể thoả mãn trong những cuộgặgỡ huynh đệ, trong phụvụ, trong việtriển khai những đặsủng củchính mình, trong âm nhạvà nghệ thuật, trong việc liên hệ với thiên nhiên, trong cầnguyện. Hạnh phúđòbuộchúng ta phảbiết thu hẹlạmộsố nhu cầcủchúng ta, và như thếchúng ta có thể sẵsàng cho nhiềkhả năng do cuộsống đem đến.

224. Điềđộ và khiêm tốđã không đượđánh giá cao trong thế kỷ cuốcùng này. Nhưng khi chễnh mãthựtậmột nhân đức trong đờsống cá nhân hoặc trong cộng đoàn, sẽ đưa đếviệmất thăng bằng, kể cả mất thăng bằng với môi trường. Như thế không đủ để chỉ trình bàvề sự toàvẹcủhệ thống môi sinh. Người ta phải can đảđể nóvề sự toàvẹcủsự sống con người, về sự cầthiếphảcó tấcả những giá trị lớn lao và liên kếvới nhau. Việbiếmấđức khiêm nhường nơi một con người, thoả mãn vô cùng về khả năng làchủ tấcả không có một ranh giớnào, cuốcùng chỉ có thể gây táhại cho xã hộvà môi trường. Không dễ để phátriểsự khiêm nhường lành mạnh và sự điềđộ vui vẻ, khi chúng ta cảthấmình làchủ lấmình, khi chúng ta loại Thiên Chúa ra khỏcuộđờchúng ta, và cái tôi củchúng ta sẽ nắlấvị trí củNgười, nếchúng ta tin rằng chúng ta chính là chủ thể có quyềxáđịnh điềgì lành điềgì dữ.

225. Mặkhác, không ai có thể thoả mãn trong mộsự điềđộnếhọ không tìđượbình an nơi chính mình. Mộsự hiểbiếđúng đắvề linh đạmộphầnằở chỗ phảtriển khai ý niệvề sự bình an, điềnàcòn hơn là sự vắng bóng chiến tranh. Bình an nội tâm của con ngườcó nhiềvấđề trong việc chăm sóc môi sinh và công ch, chỉ vì, khi sống mộcách đích thực, sẽ phảnh trong mộlốsống thăng bằng, liên kếvớkhả năng kinh ngạc, sẽ đưa cuộsống vào trong thâm sâu. Thiên nhiên chứchấđầlờcủtình yêu. Nhưng làthế nàchúng ta có thể lắng nghe giữa những tiếng ồo liên tục, trong sự lo ra thường xuyên đầy âu lo hoặc trong thờ phượng những hình nh bên ngoài? Nhiềngườcảthấmộsự mất quân bình sâu xa thúđẩhọ lànhiềviệmộcách vộvãcảthấbậrộn, trong việđảlộtấcả những gì xung quanh. Đó là tháđộ họ xử sự với môi trường. Một khoa sinh tháđầđủ đòhỏphảcó thời gian để tìlạđượsự đồng cảvớsáng tạo, để chiêm ngắĐấng Sáng Tạo, Đấng đang sống giữchúng ta và xung quanh chúng ta; sự hiệdiệcủNgười “không phảchúng ta đặt ra, nhưng phảkháphá và biểlộ ra bên ngoài” [155].

226. Chúng ta nóvề tháđộ củtrái tim đang sống vớtấcả, trong mộsự chú tâm trọvẹn, điềnàcó nghĩlà hiệdiệhoàtoàtrướmộngườkhámà không nghĩ về điềgì sẽ đến. Ngườđó hoàtoàsống mỗi giây phút như mộquà tăng của Thiên Chúa, cầphảsống tràđầvà trọvẹn. Đức Giêsu dạchúng ta tháđộ này khi Ngườmờchúng ta ngắm xem hoa cỏ ngoàđồng và các con chim trời, hoặc khi đốdiệvớmộngười đang lo lắng, và yêu thương họ (x. Mc 10,21). Vâng, Ngườhoàtoàhiệdiệđốvớtừng ngườcũng như vớtừng thụ tạo, và như thếNgười cho chúng ta thấy con đường để vượt qua sự lo lắng bệnh hoạn, làm cho chúng ta hờhợt, nổnóng và thành người tiêu thụ không chúxấu hổ.

227. Dừng lạđể cảtạ Thiên Chútrướvà sau bữa ăn là biểhiệcủtháđộ này. Tôi đề nghị vớcác Kitô hữu, hãy canh tân thói quen tốđẹnàvà sống thật sâu xa. Giây phúchúlành, dù rấngắn, gợnhớ cho chúng ta, chúng ta lệ thuộvào Thiên Chúvớtấcả cuộđời, điềnày nâng đỡ cảnghiệbiết ơn vì những quà tặng củsáng tạo, nhận ra những ngườđã lao nhọc cho cátặng phẩnàvà củng cố tình liên đớvớnhững người đang thiếthốn.

 

V. TÌNH YÊU TRÊN BÌNH DIỆXÃ HỘVÀ CHÍNH TRỊ

228. Việc chăm sóc thiên nhiên là thành phầcủmộcách sống, đưa đếkhả năng cùng chung sống vớmọngườvà trở thành cộng đoàn. Đức Giêsu nhắnhớ chúng ta, Thiên Chúlà Cha chung củmọngườvà điềnàđã khiến tấcả chúng ta trở thành anh em, chị em với nhau. Tình liên đớphảlà nhưng không và không ai phảtrả giá cho điềkẻ kháthựhiện, cũng không phảmột tiên liệmà chúng ta mong chờ nơi ngườấy. Vì thếchúng ta mớcó khả năng yêu mếkẻ thùChính tính chất nhưng không nàdẫchúng ta đếviệc yêu mếđốvớngọgiómặtrờvà cáng mây, và chấnhận, vì chúng không nằm trong sự kiểsoácủchúng ta. Vì thế chúng ta mớcó thể nóđếmộtình huynh đệ phổ quát.

229. Phảý thứrằng chúng ta cầđến nhau; chúng ta phảcó trách nhiệđốvớkẻ khávà vớthế giới; thật hữch nếchúng ta lương thiệvà tốlành. Đã có mộthời gian dàchúng ta sống sa đoạ về mặt luân lýchúng ta cười chê đạđức, niềm tin và lương thiện ; đã đếlúsự hờhợbề ngoài không giúch gì cho chúng ta. Việtàphá bấcứ nềtảng nàcủđờsống cộng đoàn, cuốcùng cũng đưa đếsự chống đốngườnàvớngười kia, mỗngườtự tìđể bảvệ những lợch cho riêng mình ; từ tháđộ đó đưa đếnhững hình thứbạlựvà độc, ngăn cảsự phátriểmộnền văn hoá đích thựđể bảvệ môi trường.

230. Gương củThánh nữ Têrêsa thành Lisieux mời gọi chúng ta thựhiện con đường nhỏ củtình yêu, đừng đánh mất cơ hộđể nómộlờdễ thương, mộnụ cười, bấcứ mộcử chỉ nhỏ bé nàtạbình an và tình bạn. Một khoa sinh thátrọvẹcũng đượthựhiệtừ những cử chỉ đơn sơ hằng ngày, qua đó chúng ta phá vỡ lý luậcủbạlực, tậdụng và ích kỷ. Trong khi đóthế giới tiêu thụ cách điên khùng cũng là thế giới trong đó cuộsống bị cáhình thứxấu xa hành hạ.

231. Tình yêu đượhiệthựtừ những cử chỉ bé nhỏ chú tâm cho nhau, cũng mang tính chấxã hộvà chính trịvà biểlộ trong tấcả hành động cố xây dựng mộthế giớtốđẹp hơn. Tình yêu mếxã hộvà sự dấn thân cho công ch là mộbiểlộ tuyệvời cho tình bái, không những tương quan giữa các cá nhân, mà còn đi đếcác tương quan vĩ mô [Makro-Beziehung – macro-relations]: tương quan xã hội, kinh tếchính trị” [156]. Vì thếGiáHộđề nghị vớthế giớlý tưởng củmột “văn hoá tình thương” [Kultur der Liebe – civilisation de l’amour] [157]. Tình yêu, trên bình diệxã hội, là chìa khoá cho mộsự phátriểđích thực: “Để có thể làm cho xã hội nhân bản hơn, cá nhân với nhân phẩtốđẹp hơn, phảđánh giá lạtình yêu trong đờsống xã hội – trên bình diệchính trị, kinh tế và văn hoá – và phảđặtình yêu trở thành lề luật cao nhất cho hành động” [158]. Trong khung này, tình yêu thúđẩchúng ta suy nghĩ đếnhững chiếthuậmới ngay cả như bắdừng sự tàphá môi trường và đòhỏmộnền “văn hoá bảvệ” [kultur der Achtsamkeit – culture de protection] nh hưởng trên toàxã hội. Khi có ngườnànhận ra tiếng gọcủa Thiên Chúa, sẽ cùng chung vớnhững ngườkhác tham gia vàsự năng động xã hội, ngườđó cũng nhớ lạrằng, đó là mộphần linh đạcủhọchính là thựhiệtình yêu tha nhân và khi thựhiện theo cách thứnàhọ sẽ trưởng thành và tự thánh hoá chính mình.

232. Không phảtấcả mọngườđềđược kêu gọtrựtiếp tham gia vàchính trị, nhưng ngay trong xã hộđã xuấhiệnhiềtổ chứchú tâm vào công ch, khi cố gắng bảvệ môi trường thành phốTỉ như họ lo lắng cho có một nơi công cộng (một toà nhàmộvòi phung nước, mộđàkỷ niệm, một khung cảnh thanh bình, một công trường) và tấcả những gì thuộvề những đốtượng đóhọ lo lắng bảvệlành mạnh hoá, làtốt hơn hoặc làđẹp hơn. Quanh những tổ chứđótriển khai hoặc nảy sinh mộmạng lướxã hội. Mộcộng đồng tự giảthoámình khỏsự tiêu thụ dửng dưng. Điềđó lànổbật văn hoá củmột căn tính chung, mộlịch sử tồtạvà tiếtụphátriển. Theo cách này, thế giớvà phẩchấđờsống củngườnghèsẽ được chăm sóc, nhờ vàý nghĩa liên đới, đồng thờcũng là ý thứcùng chung mộnhàđược Thiên Chúa trao phóNhững hoạđộng chung như thế, khi diễtả mộtình yêu dâng hiến, có thể trở thành những kinh nghiệm tinh thần sâu xa.

 

VI. NHỮNG DẤCHỈ BÍ TÍCH VÀ YÊN LẶNG ĐỂ CỬ HÀNH

233. Vũ trụ đang khai mở trong Thiên Chúa, Đấng bao phủ chúng tràđầy. Như thếcó mộmầnhiệm trong một trang giấy, trên một con đường, trong sương mai, trong gương mặcủngườnghèo [159]. Lý tưởng không chỉ là từ bên ngoàtiếvào bên trong để kháphá ra hành động của Thiên Chúa trong linh hồn, nhưng có thể đạđược qua cuộgặgỡ Người trong mọvật, Như thánh Bonaventura dạy: “Chiêm niệchỉ đạđếđỉnh cao khi con ngườcảnghiệhiệquả hồng ân Thiên Chúa trong chính mình, hoặc khi con ngườcàng hiểrõ để gặgỡ Thiên Chúa trong mọi thụ tạo bên ngoài” [160].

234. Thánh Gioan Thánh Giá dạy, những gì tốđẹp trong vạvậvà trong kinh nghiệcủthế giới “sẽ gặp nhau trong Thiên Chúa hoặc nórõ hơn, mỗsự vật cao vờlà chính Thiên Chúa, cũng như tấcả những gì tuyệvờđềkếhợp trong Thiên Chúa” [161] Không phảnhững vậhạhẹthựsự mang thiên tính, nhưng người theo thầbí sẽ cảnghiệm trong thâm sâu củmình, điềgiữa Thiên Chúvà tấcả vạvật, và như thế họ cảnhận: tấcả vạvậlà Thiên Chúa [Alle Dinge – das ist Gott / il sent que Dieu est toutes les choses] [162] Nếngườấy kinh ngạtrướsự vĩ đạcủmộngọnúi, thì họ không thể tách ngọnúi ra khỏi Thiên Chúvà nhận thức, sự kinh ngạnội tâm mà họ cảnghiệm, phảhướng về Chúa. “Những ngọnúđược nâng lên cao, chúng thậmàu mỡ, rộng, đẹp, mámẻđầbóng mát. Đốvới tôi, những ngọnúnàlà Đấng yêu thương của tôi [Diese Gebirge – das ist mein Geliebter fũr mich – Mon Bien-Aimé est pour moi ces montagnes]. Những thung lũng xa xôi thật êm dễ thương, thoáng đãng và đầbóng mát, đầnướngọt, vớbiết bao loài cây cối, vớtiếng ca củcáloài chim đang trú ngụChúng tạo nên sự mámẻ và yên nghỉ nhờ sự yên tịnh và thinh lặng đang cóĐốvới tôi, những thung lũng nàlà Đấng yêu thương tôi” [163].

235. Cábí tích là môt cách thức ưu tuyển, trong đó, thiên nhiên được Thiên Chúđólấvà trở thành trung gian cho đờsống siêu nhiên. Qua diễtiếphụng vụchúng ta đượmờgọi ôm lấthế giới trên mộbình diệkhác. Nước, dầu, lửvà màsắđượđónhậvớcábiểu trưng củchúng và được đưa vànhững lời ca tụng. Bàn tay chúlành là công cụ củtình yêu Thiên Chúvà phảnh sự gầgũcủĐức Giêsu Kitô, Đấng đếđể đồng hành vớchúng ta trên đường đời. Nướđượxối trên thân xác em bé đượrửtội, là dấchỉ cho mộđờsống mới. Chúng ta không thoát ra khỏthế gian, cũng không phủ nhận thiên nhiên, khi chúng ta muốgặgỡ Thiên Chúa. Điềnàcó thể nhận ra mộcách đặbiệt trong linh đạo Kitô giáo Đông phương: “Vẻ đẹlà một trong những dấchỉ ưu nhất trong GiáHội Đông phương để chỉ sự hoà hợthần linh và mẫnh cho nhân loạđượchuyểđổi, đượbiểlộ ở khắmọi nơi: trong cáhình dáng và cách trình bànhà thờ, trong âm thanh, màsắc, nh sáng, trong mùi hương” [164]. Theo kinh nghiệm Kitô giáo, tấcả thụ tạcủvũ trụ vậchấsẽ tìđượý nghĩđích thực trong Ngôi LờNhậThểchỉ vì Con Thiên Chúđã hộnhập trong con ngườcủmình mộphầcủvũ trụ vậthể, nơi mà Người đưa vàmộmầgiống chuyểđổdứkhoát: “Kitô giáo không phủ nhậvậchất, thân xác, nhưng đánh giá cao trong hành động phụng vụ, trong đó, thân xác con người cho thấbảchất sâu xa củmình là ĐềThờ củChúThánh Thầvà đượkếhiệvớChúa Giêsu, Đấng vì muốcứđộ trần gian đã đónhậmột thân xác” [165].

236. Sáng tạtìđượý nghĩa cao cả nhấcủmình trong bí tích Thánh ThểHồng ân hướng đếsự biểlộ theo cách khả giác, đạđượcách biểlộ kháthường khi Thiên Chúlàngười, trở thành lương thực cho thụ tạo. Nơi đỉnh cao củmầnhiệNhậThểChúđã muốtiếvào sâu thẳcủchúng ta qua mộchúvậchất. Không phảtừ trên cao xuống, nhưng từ trong thâm sâu tiến ra, để chúng ta có thể gặgỡ Người trong thế giớcủchúng ta. Trong bí tích Thánh Thểsự viên mãđã đượhiệthực; đó là trung tâm đờsống củvũ trụđiểxuấphátràđầcủtình yêu và cuộsống vô hạn. Kếhợvới Ngôi Con NhậThể đang hiệdiện trong bí tích Thánh Thểtoàthể vũ trụ tạ ơn Thiên Chúa. Thậvậy, bí tích Thánh Thể tự tạlà mộhành động tình yêu mang tính vũ trụ: “Vâng, mang tính vũ trụVì ngay cả khi đượcử hành trên bàthờ nhỏ trong mộnhà thờ vùng quê, người ta vẫn luôn cử hành vớmộý nghĩxátín trên bàthờ củthế giới” [166]. Bí tích Thánh Thể kếhợtrờvớđất, ôm trọvà thẩm thấvàtấcả sáng tạo. Thế giớxuấphátừ bàn tay của Thiên Chúa, quay về vớNgười trong mộsự thờ phượng thánh thiệvà viên mãn. Trong Bánh Thánh Thể cả sáng tạhướng đếviệthần hoá, đếcátiệthánh, đếsự kếhợvớĐấng Sáng Tạo” [167]. Vì thếbí tích Thánh Thể cũng là nguồnh sáng và động lựđể việc chăm sóc môi trường và mờgọchúng ta trở thành những ngườgìgiữ toàthể sáng tạo.

237. ChúNhật, việc tham dự vàbí tích Thánh Thể mang mộý nghĩđặbiệt. Ngànàcũng giống như ngày Sabbat của người Do Thái, là ngày thanh tẩnhững tương quan của con ngườvới Thiên Chúa, vớchính mình, vớkẻ khávà vớcả thế giới. ChúNhậlà ngàPhục Sinh, “ngàđầu tiên” củsáng tạmới, mà những hoa tráđầu tiên là nhân loạđượphục sinh củChúa, gia sảbảđảm cho việchuyểđổcuốcùng củtấcả thựtạđã đượsáng tạo. Ngoài ra, ngànàcũng công bố sự yên nghỉ vĩnh cửcủa con người trong Thiên Chúa” [168]. Trong cách thứnày, linh đạo Kitô giáhộnhậcả giá trị củsự nghỉ ngơi và lễ lạc. Con ngườthường đưa sự nghỉ ngơi chiêm niệvàbình diệnhững điều vô ch và không cầthiết, và quên rằng công việmà họ thựhiện mang mộtính chất quan trọng: ý nghĩcủmình. Chúng ta đượmờgọi đưa vàhành động củchúng ta mộchiềkích đónhậvà nhưng không, khávớviệc không làgì cảĐó là mộcách thứhoạđộng, là mộphầthuộvề yếtính củchúng ta. Vớcách thứnày, hoạđộng của con người không chỉ tránh khỏsự hoạđộng trống rỗng, cũng như sự khao khábạlựvà cô độc, chỉ chạy theo lợlộcá nhân. Luậnghỉ ngơi hằng tuầnórõ, không làviệc trong ngàthứ bảy, “để bò lừcủa ngươi đượnghỉ ngơi, và để đứa con củnữ tỳ ngươi và ngườngoạkiềlấlạsức” (Xh 23,12). Thậvậy, việnghỉ ngơi là mộsự nớrộng cánhìgiúnhận ra cách mới mẻ quyềlợcủkẻ khác. Như thếngànghỉmà bí tích Thánh Thể là trung tâm, chiểu toả nh sáng trên cả tuầlễ và thúđẩchúng ta lo chăm sóc cho thiên nhiên và ngườnghèo.

 

VII. THIÊN CHÚA BA NGÔI VÀ TƯƠNG QUAN GIỮCÁC THỤ TẠO

238. Thiên Chúa Cha là nguồgốtốthượng củtấcảĐấng là nềtảng đầtình thương và kếhiệvớtấcả những gì hiệhữu. Chúa Con, Đấng phảnh Chúa Cha và qua Ngườmà muôn vậđượtạthành, đã tự liên kếvớtráđấnày, khi Ngườđượhình thành trong cung lòng Đức Maria. ChúThánh Thần, dây liên kếbấtậcủtình yêu, hiệdiệmộcách thân thiếvớvũ trụ, khi Ngườtáđộng và tạo nên những con đường mới. Thế giớđược Thiên Chúa Ba Ngôi tạdựng như một nguyên lý thần linh duy nhất, nhưng mỗVị thựhiện công trình chung này theo cách củmình. “Khi chúng ta kinh ngạc chiêm ngắsự vĩ đạvà vẻ đẹcủvũ trụchúng ta phảngợi khen Thiên Chúa Ba Ngôi” [169].

239. Đốvớcác Kitô hữu, niềm tin vàmột Thiên Chúa, Đấng là sự hiệp thông Ba Ngôi, gợi lên trong chúng ta suy nghĩ về tấcả thựtạchứđựng trong nội tâm củNgườlà mộdấchứng rõ ràng cho Ba Ngôi Thiên Chúa. Thánh Bonaventura tiến xa hơn để xáđịnh, trước khi phạtội, con ngườcó thể kháphá ra nơi mỗthụ tạo “đềbiểlộ Thiên Chúa Ba Ngôi”. Con ngườcó thể nhận ra vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi trong thiên nhiên “khi quyểsách này không phảtốmò đốvới con người, và con mắcủa con người không bị xáđộng” [170] Vị Thánh dòng Phanxicô dạchúng ta, “mỗi thụ tạo mang trong mình mộcấtrúrõ ràng về Ba Ngôi”, rõ ràng đếđộ chúng ta có thể tình cờ chiêm ngắnếu như cánhìcủa con người không bị ngăn cản, xátrộvà yếđuối. Ngàchỉ cho chúng ta những cách thứđể tìcách đọc ra thựtế vớchìa khoá Ba Ngôi.

240. Các Ngôi vị Thiên Chúlà những liên hệ hiệhữu, và thế giớđượsáng tạo theo hình nh Thiên Chúa, là một sơi chỉ của liên hệCác thụ tạo hướng về Thiên Chúvà mỗi sinh vật, đến phiên mình có đặtính hướng đếcác sinh vậkhác, đếđộ ngay trong vũ trụ có vô số tương quan kết hợp với nhau cách mầnhiệm [171]. Điềnàmời gọi chúng ta không những kinh ngạtrướbiết bao mối tương quan đang có giữcáthụ tạo, nhưng còdẫchúng ta kháphá ra chìa khoá củchính hiệthựcủchúng ta. Vì con ngườlớn lên, trưởng thành và thánh hoá bản thân theo mứđộ họ bướvào mối tương quan, khi bước ra khỏbản thân mình để sống hiệp thông với Thiên Chúa, vớkẻ khávà vớtấcả thụ tạo. Như thếhọ bảđảm trong hiện sinh củmình sự năng động của Ba Ngôi Thiên Chúa, mà Thiên Chúđã đóng ấn trong con ngườtừ lúsáng tạo nên họTấcả đều liên kếvới nhau, và điềnàmờgọchúng ta sống một linh đạo liên đớvớmọthụ tạo, xuấphátừ mầnhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.

 

VIII. NỮ HOÀNG CỦCẢ SÁNG TẠO

241. Đức Maria, ngườMẹ đã lo lắng cho Chúa Giêsu, trong hiệtại, vớtình mẫtử và khổ đau, cũng đang chăm sóc cho thế giới đang bị thương tích. Vớtrái tim bị đâm thâu, Mẹ đã khótrướcáchếcủĐức Giêsu, bây giờ Mẹ cũng cảm thông vớnhững ngườnghèo đang bị đóng đinh và cáthụ tạo trên tráđấnày tan návì quyềlựcủa con người. Mẹ sống vớChúa Giêsu trong hiển dung hoàtoàbiếđổvà tấcả thụ tạđều ca tụng vẻ đẹcủMẹMẹ là ngườnữ mặmặtrời, mặt trăng… dưới chân Mẹ và mũ triều thiên vớmười hai ngôi sao trên đầMẹ” (Kh 12,1). Được nâng lên trời, Mẹ là Mẹ và là Nữ Vương củtoàthể sáng tạo. Trong thân xác vinh quang, cùng vớĐức Kitô Phục Sinh, mộphầcủsáng tạđã đạđượtrọvẹsự đẹp đẽ củmình. Mẹ nhìvào trong trái tim của Mẹ không những toàbộ đờsống củChúa Giêsu, mà Mẹ đã gìgiữ mộcách trung tín (x. Lc 2, 19.51), nhưng bây giờ Mẹ hiểđượý nghĩcủvạvật. Vì thếchúng con có thể kêu cầMẹđể Mẹ giúchúng con, biếnhìthế giớvới con mắt khôn ngoan hơn.

242. Cùng vớMẹnổbậhình nh củthánh Giuse trong Thánh Gia. Ngài chăm sóĐức Maria và Chúa Giêsu với lao động và sự hiệdiệquảng đạcủmình và đã giảthoácángàkhỏquyềlựcủkẻ bất công, khi đưa cángài sang Ai Cập. Trong Tin Mừng, ngàxuấhiện như mộngười công chính, lao động và mạnh mẽThế nhưng, gương mặcủngàcũng cho chúng ta nhậthấmộsự dịhiềvĩ đại, không phảlà đặtính củkẻ yếđuối, nhưng là củnhững kẻ thựsự mạnh mẽchú tâm đếthựtế để yêu mếvà phụvụ cách khiêm tốn. Vì thếngàđược tuyên bố là Đấng BảHộ cho toàthể GiáHội. Ngàcũng có thể dạchúng ta để che chở, có thể động viên chúng ta lao động vớtấlòng quảng đạvà âu yếm, để chăm sóthế giớmà Thiên Chúđã gửi gắm cho chúng ta.

 

IX. BÊN KIA NH MẶTRỜI

243. Cuốcùng, chúng ta đứng đốdiệvớvẻ đẹp vô tậcủa Thiên Chúa (x. 1 Cr 13,12) và vớmộsự tháphục sung sướng, chúng ta có thể đọđượmầnhiệNgười cho chúng ta chia sẻ vàsự viên mãn vô tậcủNgười. Vâng, chúng ta đang lữ hành đếngàSabbávĩnh cửu, đến Giêrusalem mới, ngôi nhà chung ở trên trời. Chúa Giêsu nóvớchúng ta: “Đây! Ta làm cho tấcả nên mới” (Kh 21,5). Cuộsống vĩnh cửsẽ là mộsự kinh ngạđược chia sẻ, nơi mỗi thụ tạo sẽ tìđượvị trí củmình trong việhiển linh chósáng và sẽ có điềgì mang đến cho kẻ nghèđượgiảphóng mộcách dứkhoát.

244. Giữthời gian đóchúng ta đượkếhợlạvới nhau để đónhận ngôi nhà này, ngôi nhà được trao cho chúng ta, vì chúng ta biết, tấcả điềgì tốđẹp đang cósẽ đượđónhậvàbàtiệc thiên quốc. Chúng ta sẽ cùng tiếbướvớtấcả thụ tạo trên con đường củchúng ta trên thế gian này – để đi tìm Thiên Chúa – chỉ vì “khi thế gian có mộnguồgốvà đượtạdựng, nó sẽ đi tìĐấng sáng tạo nên nónó tìĐấng đã ban cho nó mộkhởđầu, đó là Đấng Sáng Tạcủnó” [172]. Hãtiếbước trong tiếng ca vang! Ướgìcuộchiếđấcủchúng ta cho hành tinh nàsẽ không cất đi khỏchúng ta niềm vui của hy vọng.

245. Thiên Chúa, Đấng kêu gọchúng ta dấn thân cách quảng đại, ban cho chúng ta sứmạnh và ánh sáng mà chúng ta cần thiêt đế tiếbước. Giữa trung tâm thế giớnày, Chúcủcuộsống, Đấng quá yêu thương chúng ta, vẫtiếtụhiệdiện. Ngườsẽ không bao giờ lìbỏ chúng ta, không bao giờ để chúng ta mộmình, chỉ vì Ngườdứkhoákếhợvớtráđấcủchúng ta và tình yêu củNgườvẫn luôn dẫchúng ta đi tìnhững con đường mới. Chútụng Người!

246. Sau một suy tư lâu dàvừa vui, cũng vừđầy đau khổ, tôi xin đề nghị hai lời kinh: mộlờmà chúng ta có thể chia sẻ vớtấcả mọngười tin vàmột Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạđầquyền năng, và mộlời kinh kháđể cho những người Kitô hữchúng ta có thể đónhậtrách nhiệđốvớsáng tạo như Tin Mừng củChúa Giêsu trình bày cho chúng ta.

 

Lời kinh cho tráđấchúng ta

Lạy Thiên Chútoàn năng

Chúa luôn hiệdiện trong vũ trụ

và ngay trong những thụ tạnhỏ bé nhấcủChúa.

Chúđã phủ đầlòng từ i trên tấcả những gì hiệhữu,

Xin gieo vàlòng chúng con sứmạnh củtình yêu Chúa,

để chúng con bảo vệ cuộsống và vẻ đẹp muôn loài.

Xin đổ tràbình an củChúvàlòng chúng con,

để chúng con có thể sống như anh em, chị em với nhau,

không táhại cho bấcứ ngườnào.

Lạy Thiên Chúcủa anh chị em nghèkhổ,

xin trợ giúchúng con

để chúng con giơ tay cứgiúnhững anh chị em bị bỏ rơi,

những ngườbị lãng quên trên tráđấnày,

những ngườnàthựsự luôn luôn có giá trị trướmặChúa.

Xin cứchữcuộsống củchúng con,

để chúng con trở thành những ngườbảvệ cho tráđấnày,

chứ không phảlà những kẻ cướbóc,

để chúng con gieo những gì tốđẹp

chứ không phảnhững thứ ô nhiễvà tàphá.

Xin chạđến tâm hồnhững kẻ chỉ tìthành công

dựa trên giá trị của người nghèvà củtráđấnày.

Xin dạchúng con

kháphá giá trị củvạvật

và biết chiêm ngắm trong sự ngất ngây,

để nhận ra

chính chúng con cũng được liên kết sâu xa vớtấcả thụ tạnày

trên con đường chúng con tiếvành sáng vô tậcủChúa.

Xin tạ ơn Chúa

vì Chúhiệdiệtừng ngàvớchúng con.

Chúng con nài xin Chúa

nâng đỡ chúng con

trong cuộchiến cho công bằng, tình thương và bình an.

 

Lời kinh của Kitô hữcùng vớsáng tạo

Lạy Cha,

Cùng với muôn thụ tạo xuấphátừ bàn tay uy quyềcủa Cha,

chúng con cùng ngợi khen Cha.

Tấcả đềthuộvề Cha

và tấcả đượtràđầsự hiệdiệvà tình âu yếcủa Cha.

Chúng con xin ngợi khen Cha.

LạChúa Giêsu, Con Thiên Chúa,

nhờ Chúmà tấcả đượtạthành.

Trong cung lòng Mẹ Maria,

Chúđã nhậlấhình dạng con người ;

Chútrở thành mộthành phầcủtráđấnày

và đã nhìthế giớvới con mắt nhân loại.

Ngày nay Chúvẫsống động trong từng thụ tạo

với vinh quang phục sinh củChúa.

Chúng con xin ngợi khen Chúa.

LạChúThánh Thần,

nhờ ánh sáng củChúa,

Chúđã hướng thế giớnàđếtình yêu củChúa Cha;

Chúvẫsống trong tâm hồchúng con,

để khuyếkhích chúng con thựhành cáviệthiện.

Chúng con xin ngợi khen Chúa.

Lạy Thiên Chúa, Duy nhấvà Ba Ngôi,

Cộng ĐoàTốThượng củtình yêu vô biên,

xin dạchúng con biếnhìngắChúa

trong vẻ đẹcủvũ trụ,

nơi tấcả nóvớchúng con về Chúa.

Xin khơi dậy trong chúng con lời ca ngợvớlòng biết ơn

đốvớtừng hữthể do Chúsáng tạo.

Xin ban cho chúng con hồng ân

để chúng con cảnhậsự gắbó thân thiếvớtấcả vạvật.

Lạy Thiên Chútình yêu,

xin cho chúng con thấvị trí củchúng con trong thế giớnày

như khí cụ tình yêu củChúa

đốvớtấcả sinh vật trên tráđấnày,

mà không thụ tạo nàlại quên Chúa.

Xin soi sáng cho những người ôm lấgiàu sang và quyềhành,

để họ lánh xa khỏtộlỗvề sự dửng dưng,

biết yêu mến công ch,

động viên kẻ yếhèn

và chăm sóthế giớmà chúng con đang sống,

Kẻ nghèvà tráđấđều nài xin:

LạChúa, xin nắlấchúng con

bằng quyền năng và ánh sáng củChúa,

để chở che mọsự sống,

để chuẩbị một tương lai tốđẹp,

ướgì Nước công bằng, bình an, tình thương và tuyệt mĩ mau đến.

Chúng con chútụng Chúa.

Amen.

Ban hành tại Rôma, cạnh đềthờ Thánh Phêrô, ngày 24 tháng Năm, ngàđạlễ ChúThánh ThầHiệXuống, vào năm thứ ba triềđạGiáHoàng của tôi.

ĐGH Phanxicô

 

Chú thích III

.

[143] Ibid., 231: p. 1114.

[144] ROMANO GUARDINI, Das Ende der Neuzeit, 9th edition, Würzburg, 1965, 66-67 (English: The End of the Modern World, Wilmington, 1998, 60).

[145] JOHN PAUL II, Message for the 1990 World Day of Peace, 1: AAS 82 (1990), 147.

[146] BENEDICT XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), 66: AAS 101 (2009), 699.

[147] ID., Message for the 2010 World Day of Peace, 11: AAS 102 (2010), 48.

[148] Earth Charter, The Hague (29 June 2000).

[149] JOHN PAUL II, Encyclical Letter Centesimus Annus (1 May 1991), 39: AAS 83 (1991), 842.

[150] ID., Message for the 1990 World Day of Peace, 14: AAS 82 (1990), 155.

[151] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 Nov 2013), 261: AAS 105 (2013), 1124.

[152] BENEDICT XVI, Homily for the Solemn Inauguration of the Petrine Ministry (24 April 2005): AAS 97 (2005), 710.

[153] AUSTRALIAN CATHOLIC BISHOPS’ CONFERENCE, A New Earth – The Environmental Challenge (2002).

[154] ROMANO GUARDINI, Das Ende der Neuzeit, 72 (The End of the Modern World¸ 65-66).

[155] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), 71: AAS 105 (2013), 1050.

[156] BENEDICT XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009) 2: AAS 101 (2009), 642.

[157] PAUL VI, Message for the 1977 World Day of Peace: AAS 68 (1976), 709.

[158] PONTIFICAL COUNCIL FOR JUSTICE AND PEACE, Compendium of the Social Doctrine of the Church, 582.

[159] EVA DE VITRAY-MEYEROVITCH [ed.], Anthologie du soufisme, Paris 1978, 200).

[160] In II Sent., 23, 2, 3.

[161] Cántico Espiritual, XIV, 5.

[162] Ibid.

[163] Ibid., XIV, 6-7.

[164] JOHN PAUL II, Apostolic Letter Orientale Lumen (2 May 1995), 11: AAS 87 (1995), 757.

[165] Ibid.

[166] ID., Encyclical Letter Ecclesia de Eucharistia (17 April 2003), 8: AAS 95 (2003), 438.

[167] BENEDICT XVI, Homily for the Mass of Corpus Domini (15 June 2006): AAS 98 (2006), 513.

[168] Catechism of the Catholic Church, 2175.

[169] JOHN PAUL II, Catechesis (2 August 2000), 4: Insegnamenti 23/2 (2000), 112.

[170] Quaest. Disp. de Myst. Trinitatis, 1, 2 concl.

[171] Cf. THOMAS AQUYNAS, Summa Theologiae, I, q. 11, art. 3; q. 21, art. 1, ad 3; q. 47, art. 3.

[172] BASIL THE GREAT, Hom. in Hexaemeron, I, 2, 6: PG 29, 8

Bài viết khác

Các khóa học nhạc ngắn hạn, dài hạn dành cho mọi lứa tuổi, mọi trình độ | Hải Linh Quê Hương